Thứ Ba, 3 tháng 12, 2013

Sùng đạo và Cả tin rất thường đi chung với nhau

Lm. William Grimm

Một người Công giáo Nhật giải thích Giáo hội tại Nhật và đức tin của ông đã thay đổi như thế nào từ khi ông được rửa tội ngay sau Thế Chiến II. Trở lại thời đó, ông nói, đạo Công giáo thường chú tâm vào Đức Mẹ hơn là Chúa Giêsu. Lộ Đức và Fatima sống động hơn là Galilê và Giêrusalem về đời sống đức tin. Nhiều việc làm đạo đức hướng về Đức Mẹ. Giờ thờ phượng, hiểu theo nghĩa việc cử hành phụng vụ chung hướng về Chúa Cha, thường được ưu tiên để cầu nguyện riêng, thì đa phần là lần chuỗi Môi côi.
Về sau, khi Công đồng Vatican II nhấn mạnh cần trở lại những truyền thống đức tin cổ xưa nhất, người Công giáo ở Nhật mới bắt đầu làm quen với Kinh Thánh. Nhiều người ngạc nhiên khi thấy Kinh Thánh ít ủng hộ các quan điểm và việc làm vốn từng là trụ cột của đời sống Công giáo của họ.
Và như thế theo như người bạn của tôi nói Giáo hội của Đức Mẹ giờ trở thành Giáo hội của Đức Kitô.
Quan điểm chính của Giáo Hội về những sự hiện ra với các thông điệp của Đức Mẹ và những vị khác là một thái độ hoài nghi, tuy nhiên thái độ này rất hiếm thấy nơi một số cá nhân giáo dân, các linh mục và thậm chí các giám mục. Những khẳng định về sự hiện ra cần được đánh giá, bằng chứng xác thực về những con người và những sự kiện cần được kiểm chứng hay thậm chí thay thế những điều đã từng được tin và dạy qua các thời đại. Đó là một sự đáp trả lành mạnh. Sùng đạo và cả tin rất thường đi chung với nhau.
Một thí dụ rõ ràng về sự cả tin là qua lời tường thuật của người nhìn thấy ảnh Đức Mẹ Đồng Trinh trên cánh cửa lấp lóa hay trong một bụi cây. Nhưng bất kỳ ai nhìn những đám mây mịn trên bầu trời xanh đều biết rằng thật dễ dàng nhìn thấy những khuôn mặt và hình dáng vốn chỉ là ảo giác. Và rồi “những thị nhân” này làm sao biết những gì họ nhìn thấy thật sự là hình ảnh của Đức Mẹ? Điều đó không phải như thể, là chúng ta thấy những bức ảnh thời xưa của Đức Mẹ. Nó có thể là điều gì đó tương tự.
Gần đây, Vatican nhắc các giám mục Mỹ Châu rằng các thông điệp phổ biến của Đức Mẹ tại Medjugorje chưa được Giáo hội chấp thuận và do đó không được phép chính thức tổ chức hành hương và các hoạt động khác. Khoảng một tuần sau, Đức Thánh Cha Phanxicô phê phán sự mê hoặc với những thị kiến và thông điệp của Đức Mẹ như là mối nguy hiểm có thể lôi kéo người ta “xa lánh Phúc âm, Chúa Thánh Thần, hòa bình và hy vọng, vinh quang và vẻ đẹp của Thiên Chúa”. Ngài tiếp tục đề cập đến Medjugorje, nơi người ta khẳng định Đức Mẹ truyền thông điệp hàng ngày. Đức Thánh Cha nói Đức Mẹ “không phải là giám đốc bưu điện, chuyển phát thư mỗi ngày”.
Một thái độ hoài nghi về “những lần hiện ra” đó xuất phát từ một linh mục đến từ vùng Medjugorje. Trong một cuộc phỏng vấn, ngài chỉ ra rằng nếu Đức Mẹ thật sự viếng thăm Yugoslavia, thì Ngài không cho biết trong một thời gian ngắn nước này sẽ rơi vào cảnh hỗn loạn diệt chủng. Ít ra Ngài có thể đã cho một thông điệp là việc giết con cái của người hàng xóm là không đúng, như những Kitô hữu dính líu đến “cuộc thanh lọc chủng tộc” đã làm.
Akita ở Nhật thu hút khách hành hương, đặc biệt là từ Hàn Quốc, đến viếng một bức tượng được cho là biết khóc. Liên quan đến bức tượng là “những lời mạc khải” khẳng định rằng Đức Mẹ và Chúa Giêsu cùng nhau cản ngăn cơn giận của Chúa Cha, nếu không Ngài sẽ hủy diệt những kẻ tội lỗi. Không có thuật ngữ thần học chỉ việc này, nhưng Freud đã đặt tên cho nó. Đó là phức cảm Oedipus, trong đó con trai và mẹ liên kết chống đối cha.

Đó có thể là hệ tâm lý chính thống, nhưng về thần học nó là lạc giáo, vì việc từ chối sự hiệp nhất đầy yêu thương nơi Thiên Chúa Ba Ngôi và việc trình bày Chúa Cha vốn rất yêu thương thế gian đã sai Chúa Con làm đấng cứu chuộc chúng ta lại trở thành một quái vật đầy hận thù. Điều đó không thuộc về Kitô giáo, và tôi thất vọng khi thấy các giám mục Nhật vẫn im lặng về việc đó, dường như hy vọng chuyện đó sẽ trôi qua mà không cần các ngài phải công bố đức tin nơi Thiên Chúa Ba Ngôi của chúng ta.
Tôi cho rằng Đức Mẹ biết rõ con Ngài đã làm và nói gì, thế nhưng những người khẳng định là sứ giả của Ngài lại ít hay không biết gì về sứ mạng và giáo huấn của Chúa Giêsu hay Giáo hội của Ngài.
Tại sao người ta lại đưa ra sự mê hoặc với những lời mạc khải tư vốn chẳng là gì khi so sánh với Lời Chúa, nếu không muốn nói điều đó thật sự nguy hiểm?
Tất nhiên, lý do chính là do nhiều người Công giáo không hiểu biết gì về Kinh Thánh, và như Thánh Hiêrônimô nói: “Không biết Kinh Thánh là không biết Chúa Kitô”. Thậm chí một nửa thế kỷ sau khi Công đồng Vatican II “khẩn thiết và đặc biệt” thúc giục “tất cả các Kitô hữu … học hỏi bằng cách thường xuyên đọc Kinh Thánh” để ‘hiểu biết tường tận về Đức Giêsu Kitô’ (Ph 3,8), rất nhiều người Công giáo trông chờ vào những thị kiến và “mạc khải” tư để biết về Thiên Chúa.
Lời cảnh báo trong thư thứ 2 Timôthê 4, 3-4 sau đây còn thích hợp với nhiều giáo sĩ không có lời biện hộ cho sự thiếu hiểu biết như thế: “Thật vậy, sẽ đến thời người ta không còn chịu nghe giáo lý lành mạnh, nhưng theo những giục vọng của mình mà kiếm hết thầy này đến thầy nọ, bởi ngứa tai muốn nghe. Họ sẽ ngoảnh tai đi không nghe chân lý, nhưng hướng về những chuyện hoang đường”.
Có phải đã đến lúc có thêm người Công giáo bắt chước nhiều anh chị em chúng ta ở Nhật và cam kết sử dụng Kinh Thánh và giáo huấn của Giáo hội để đánh giá những lời người ta khẳng định chăng? Hãy để Đức Mẹ và các thánh làm gương sống Phúc âm cho chúng ta trong thời đại và nơi chúng ta ở và chẳng cần gì thêm nữa. Chúng ta quá ngỡ ngàng trước mầu nhiệm nhập thể và cứu chuộc rồi.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét