Trong
bài Rollo “Giáo hữu là Giáo hội” có bàn đến thế nào là giáo hữu.
Giáo
hữu không phải là người có thái độ tôn sùng giáo sĩ hơn bình thường và cũng
không phải là người không xem trọng các linh mục chỉ vì họ là linh mục. Tìm hiểu
mối tương liên giữa cursillista và giáo xứ cũng là nhiệm vụ chung của chúng ta.
1. Chúa Giêsu
là vị Linh mục Tiên Khởi, là người “Đấng
trung gian giữa Thiên Chúa và nhân lọai” (1Tm 2,5). Chúa đã truyền chức
Linh mục cho các Thánh Tông đồ. Các vị
Linh mục, Giám mục qua các thời đại trong Giáo hội tiếp nối sứ mệnh mà Chúa
Giêsu đã uỷ thác hay Tông Truyền:
“Ai nghe anh em là nghe Thầy; và ai khước từ
anh em là khước từ Thầy; mà ai khước từ Thầy là khước từ đấng đã sai Thầy…Thầy
ban cho anh em quyền năng để đạp lên rắn rết, bọ cạp và mọi thế lực kẻ thù, mà
chẵng làm hại gì được anh em” (Lc 10,16.19)
“Anh em
hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm
giữ ai thì người ấy bị cầm giữ” (Ga 20,23)
2. Người
Cursillista đích thực cần am tường và thăng tiến sự liên hệ thiêng liêng và mật
thiết giữa môi trường Giáo xứ và công tác tông đồ của Phong Trào vì:
(1) “Giáo Xứ là
Gia đình của Chúa, một cộng đồng đầy tình huynh đệ chỉ có một linh hồn hay nói
một cách khác, giáo xứ là một cộng đồng Thánh Thể, có năng cách cử hành bí tích
Thánh Thể, một cộng đồng Đức Tin.
(2) Đức Giáo Hoàng
Phaolô VI đã tuyên bố với hàng giáo phẩm ở Roma: “Ta tin tưởng cơ cấu cổ kính của giáo xứ là cộng đồng tiên khởi của dân
Chúa. Chính giáo xứ đã khai sinh đời sống phục vụ và tập hợp dân Chúa. Giáo xứ
có bổn phận bảo tồn và nung nấu đức tin. Giáo xứ còn là trường dạy dỗ giáo lý cứu
rỗi của Chúa Kitô. Giáo xứ là nơi tích cực thực thi các công tác bác ái huynh đệ”.
(3) “Giáo xứ là
giếng nước của thôn xóm để mọi người đến giải khát. Giáo dân là nguồn mạch làm
cho giáo xứ càng ngày càng thêm phong phú. Mỗi giáo dân là một hữu thể cá biệt
không thể thay thế được. Mỗi giáo dân có sở trường, sở đoản, có nhiều khả năng
về nhiều khía cạnh khác nhau. Với tinh thần xây dựng và cởi mở, chúng ta có thể
giải quyết thõa đáng mọi nhu cầu chính đáng của giáo dân.“
(4) “Giáo dân phải
tôn kính, giúp đỡ và nâng đỡ vị chủ chăn trong tình nghĩa phụ tử của mình. (Christifideles
Laci), Vị chủ chăn là nguyên lý hiển hiện và là nền móng của sự hợp nhất. Chúa
phán: "Thầy
sẽ trao cho anh chìa khoá Nước Trời: dưới đất, anh cầm buộc điều gì, trên trời
cũng sẽ cầm buộc như vậy; dưới đất, anh tháo cởi điều gì, trên trời cũng sẽ
tháo cởi như vậy." (Mt 16,19)
(5) ĐGH Phaolô VI
tuyên bố “Để xây dựng chắc chắn ngôi nhà
chung, chúng ta phải khước từ óc chia rẽ, phe phái. Ngược lại, chúng ta phải
tôn trọng và sẵn sàng cộng tác với nhau bằng một tâm hồn nhẫn nại, sáng suốt và
sẵn sàng hy sinh”
3. Ngoài môi
trường giáo xứ, người tín hữu còn phải dấn thân vào các môi trường xã hội ngoài
giáo xứ với nỗ lực “Làm cho ý định cứu độ
của Thiên Chúa ngày càng lan rộng đến tất cả mọi người, mọi nơi và mọi thời đại”
(Hiến Chế Tín Lý về GH).
Hai sứ mệnh
chính yếu của Giáo hội, cũng là sứ mệnh của mỗi Kitô hữu:
(1) Thánh hóa
nhân loại bằng cách đào tạo cho con người một lương tâm Công giáo đích thực để
họ có thể đem tinh thần Phúc Âm thấm nhuần mọi môi trường cũng như mọi lãnh vực
của đời sống.
(2) Canh tân trật
tự thế giới. Thế giới càng sống xa tinh thần Phúc Âm thì càng hỗn loạn. Kitô hữu
có sứ mệnh canh tân trật tự hoàn vũ hầu cải thiện đời sống của nhân thế trong
tình mến Chúa yêu người.
“Giáo
hội không thể tránh né sứ mệnh thường trực của mình là đem Phúc Âm đến cho hằng
trăm triệu người cả nam lẫn nữ chưa nhận biết Chúa, đấng cứu rỗi con người.”
Công đồng Vatican II đã khuyến khích Kitô hữu nên chu toàn công tác trần thế một
cách nhiệt tình, trung tín và vâng theo tinh thần Phúc Âm. Sứ mệnh của Kitô hữu
được Thiên Chúa uỷ thác là rao truyền Phúc Âm, thánh hoá nhân loại và đào luyện
cho con người có một lương tâm Công giáo đích thực để họ có thể đem tinh thần
Phúc Âm thấm nhuần mọi người, mọi nơi và mọi thời đại. “Khốn thân tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng!" (1Cr 9,16).
4. Tông đồ là
nhiệm vụ chính của Cursillista. Sứ mệnh nầy không thể thành công nếu không được
quý vị Linh mục cai quản các giáo xứ hỗ trợ. Các môi trường Phúc Âm chính của
Cursillista, trong thực tế, là gia đình, nơi làm việc, khu vực sinh sống, giáo
xứ và giáo phận. Người cursillista không đủ khả năng và phương tiện để đi hành đạo tại những nơi xa lạ
như các đấng thừa sai.
Sở
dĩ có sự hướng dẫn là Phong trào Cursillo sinh hoạt trong phạm vi giáo phận, vì
Phong trào được hình thành bởi Cursillista từ nhiều Giáo Xứ. Tuy là một Phong
trào của giáo dân, nhưng Phong trào được
đặt để sinh hoat dưới quyền quản hạt của vị Giám Mục hay Tổng Giám Mục điạ
phương. Giáo phận hay Tổng Giáo phận được hình thành bởi nhiều giáo xứ và giáo
hữu trong giáo phận là thành viên của các giáo xứ trong địa phận. Do đó nói rằng
cursillista không liên hệ gì đến giáo xứ là phủ nhận bản gốc của mình vì
cursillista phải là giáo hữu thành viên của một giáo xứ theo giáo luật và hành
đạo theo phương pháp Cursillo. Trên lý thuyết Cursillista được đào luyện không
phải để phục vụ giáo xứ như thành viên các đoàn thể Công giáo Tiến Hành. Trong
thực tế, một số Cursillista, vì là thành viên của giáo xứ phải có bổn phận với
giáo xứ. Ngoài giờ sinh hoạt chính yếu trong Phong trào Cursillo, còn tham gia
công tác mục vụ trong các giáo xứ, đúng với đường lối của Phong trào “quy về
môi trường cũ để hoạt động”.
Ngoài
ra, các sinh hoạt hội nhóm, Ultreya, tùy ngôn ngữ, thường được tổ chức tại các
môi trường giáo xứ liên hệ thích hợp. Phần vì trước khi trở thành người lãnh đạo
Cursillo trong các môi trường, các Cursillista đã là “người lãnh đạo của Giáo Hội
trong các giáo xứ”. Phần khác, những ràng buộc nhân sinh về văn hoá, ngôn ngữ,
tập quán…cũng thuận lợi cho sự giao tế, phát triển tình bằng hữu, một yếu tố
thiết yếu trong công tác Phúc Âm hóa môi trường.
5. Tuy vậy,
cũng có trường hợp Cursillista không am tường sự liên hệ mật thiết giữa Giáo xứ
và Phong trào Cursillo, hoặc bị ám ảnh bởi câu “Phong trào Cursillo không thuộc
Giáo Xứ” đã tỏ thái độ “bất xứng” với quý vị Linh mục cai quản giáo xứ, mặc dù
Phong trào Cursillo tại đa số các Giáo phận hay Tổng Giáo Phận thường có chính
sách phối hợp với giáo xứ để tổ chức các Khóa Cursillo tại các giáo xứ, mời các
vị Linh Mục, các tu sĩ nam, nữ, giáo dân đang sinh hoạt tại các giáo xứ tham
gia các khoá học để trở thành cursillista và linh hướng cho Phong trào.
Sự
kiện “bất kính” nầy có thể gây nên một sự ngộ nhận giữa Hội đồng Giáo Xứ, giáo
dân trong giáo xứ và Phong trào Cursillo. Các hành vi thái quá nầy chẳng những
đi ngược lại chủ trương của Phong trào mà còn phương hại đến uy tín của Phong
trào Cursillo. Một khi Phong trào mất uy tín trước giáo hữu trong giáo xứ điạ
phương, thì làm thế nào Phong trào tìm ra ứng viên để gởi đi tham dự khóa, làm
sao để bành trướng sinh hoạt, hay chu toàn sứ
mệnh thiêng liêng như sùng đạo, học đạo và hành đạo…
Qua
tiến trình hình thành và phát triển của Phong trào từ thập niên 1940, các trở
ngại về nhân sự nêu trên cũng đã xảy ra từ khi Phong trào Cursillo mới được
hình thành. Vì thế, Giám Mục Juan Hervas (1960) đã viết:
“Mục tiêu của Phong trào Cursillo là canh tân Cộng
đồng Dân Chúa. Muốn vậy, nên lọại bỏ những ai không đủ khả năng trí tuệ vì
chính những phản ứng tâm lý qua thái độ bất bình thường khiến cho họ chẵng những
không giúp ích gì cho sự phát triển Vương Quốc Chúa mà còn có thể gây tác hại
hơn nữa là ngăn trở những cursillista khác hoàn thành sứ mệnh của mình, như một
cung đàn lạc điệu, chói tai trong Phong trào sống động Cursillo”.
Gần đây,
trong khoá CDC Anh ngữ tại Wichita, Kansas, tháng 2/2014 trong giờ hội thảo, một
khoá sinh, y sĩ hưu trí, đã nêu lên trường
hợp anh ta, vì “đức bác ái chân chính”, đã gởi một cursillista đi khám bệnh tâm
thần vì thường có thái độ “gây rối” trong các phiên họp nhóm và Ultreya. Cũng
có trường hợp, có người vì viện lý do “bác ái giả hiệu” để dung dưỡng những phần
tử phá rối sinh hoạt của Phong trào hoặc dung dưỡng các cursillista có hành vi
lạm dụng “đặc sủng” đã khiến cho một Phong
trào có trên 150 cursillista chán nản và ngưng sinh họat.!.
“Công bằng đi trước bác ái đến sau”. Chúa
là người công chính, thương yêu mọi người, nhưng Chúa không dung dưỡng tội phạm
vì tội phạm là hành vi của Satan.
Sợ mất
lòng người khác nên không dám nói lên sự thực để xây dựng Phong trào là hành vi
thiếu bác ái vì “Biết mà không nói là bất nhân”. Sợ Satan hay sợ tha nhân thì
không còn sợ Chúa. Không còn sợ Chúa thì không thể làm chứng nhân cho Chúa để
thực sự xây dựng Phong trào, đoàn thể, Giáo Hội.
6. Không phải
ai cũng sáng suốt, phân biệt được phải, trái, lành, dữ nên trong Tông Thư “Il
Fermo Proposito” gởi cho hàng giáo phẩm Ý Đại Lợi, ngày 11 tháng 6, năm 1905,
ĐGH Pio X đã nhấn mạnh về vai trò của hàng giáo sĩ nhằm giáo huấn và hướng dẫn
hoạt động của các đoàn thể theo đường hướng của Giáo hội dựa trên căn bản Kinh
Thánh:
"Ai
nghe anh em là nghe Thầy; và ai khước từ anh em là khước từ Thầy; mà ai khước từ
Thầy là khước từ Đấng đã sai Thầy." (Lc 10,16).
"Anh em có làm gì, nói gì, thì hãy làm hãy
nói nhân danh Chúa Giê-su và nhờ Người mà cảm tạ Thiên Chúa Cha". (Cl
3,17)
"Vì muôn vật đều do Người mà có, nhờ Người
mà tồn tại và quy hướng về Người. Xin tôn vinh Thiên Chúa đến muôn đời! A-men." (Rm
11,36)
"Đừng làm chi vì ganh tị hay vì hư danh,
nhưng hãy lấy lòng khiêm nhường mà coi người khác hơn mình.4 Mỗi người đừng tìm
lợi ích cho riêng mình, nhưng hãy tìm lợi ích cho người khác.5 Giữa anh em với
nhau, anh em hãy có những tâm tình như chính Đức Ki-tô Giê-su". (Pl
2, 3-5).
7. Cũng có khi
vì quan niệm sai về tinh thần bác ái, một số cursillista thiếu can đảm, thường
tự bịt tai, che mắt trước những hành vi bất thường xảy ra trong Phong trào,
nhưng nếu các phần tử “tự cao, tự đại, tự mãn” cứ lạm dụng tinh thần bác ái của
các thành viên khác, vẫn tiếp tục gây phiền nhiễu đến sinh họat chung thì cấp
lãnh đạo Phong trào cần phải có thái độ
thích ứng để thực thi sứ mệnh của Phong trào. Vì thế mà sách Cẩm Nang Lãnh Đạo
khuyên nên chọn những cursillista sáng suốt, hiểu biết sách lược của Phong trào,
những cursillsta can đảm không sợ mất chức vào Ban Điều hành của các Phong
trào.
Thiên
Chúa là tình yêu, là bác ái, nhưng Ngài cũng đã giáng xuống nhiều hình phạt như
phạt Tổ Tông của nhân loại ra khỏi vườn Địa đàng, đốt thành Sodom, tạo nạn đại
hồng thuỷ, hoặc xua đuổi các lái buôn làm ô uế Đền Thánh và các hình phạt khác…
"Thiên Chúa sẽ thưởng phạt mỗi người tuỳ
theo việc họ làm…“ (x Rm 2, 6-8).
Tại
sao? vì Thiên Chúa là tình yêu và cũng là Đấng Công Chính. “Sự công chính của Thiên Chúa được mặc khải" (Rm 1,17).
Công chính nghĩa là có công thì thưởng, có tội thì phạt,
để duy trì trật tự chung của Vương Quốc Chuá.
8. Bác ái mà
thiếu công chính không phải là bác ái chân chính. ĐGH Gioan XXIII đã nói ”phải thi hành đức công chính trước, rồi bác
ái mới đến sau”.
Bác
ái là thương người. Nhưng ngược lại, chúng ta phải xử thế một
cách công chính, mới xứng đáng được người thương. Thương người làm bậy
chỉ là sự thương hại một cách tiêu cực, không phải là bác ái chân chính. Sự
thương hại, hay im lặng, bao che sự sai trái, có khi khiến cho người làm việc
sai trái tưởng mình là thánh, không biết lỗi lầm để tự hoán cải, tức là gián tiếp
hại người, bỏ mặc “khôn nhờ, dại chịu”. Vì thế, như trên đã nói “Biết mà không nói là bất nhân, nói mà không
nói hết cũng bất nghĩa”.
Bất
nhân (không thương người), bất nghĩa (không giúp đỡ người) đều là lỗi đức bác
ái.
Công
chính tự nó có tính cách thuyết phục, bác ái tự nó có tính cách cảm hóa.
Châm ngôn của Giáo hội Công giáo là sống đạo hạnh và thực thi đức công bằng và
bác ái.
ĐGH
Phaolô VI đã nói: Muốn có hòa bình trong xã hội, sự bình an trong tâm hồn, sự hạnh
thông trong sinh hoạt đoàn thể trước hết phải tôn trọng đức công chính. Nghĩa
là phải sinh hoạt đúng theo đướng hướng phục vụ nhân quân xã hội hay mục đích của
tổ chức, không lợi dụng tổ chức mưu cầu lợi ích cho cá nhân hay phe phái.
Thánh
Augustine cũng chủ trương ”Bác ái không thể thay thế cho sự công chính bị tước
đoạt”.
Công
chính là “luật lệ, bổn phận công dân” phải
thực thi ”để duy trì trật tự của
đoàn thể, của xã hội, chống bất công, hầu tạo hạnh phúc, an vui cho thành viên,
tha nhân”.
Bác ái là “luân lý, đạo đức” mà mỗi cá nhân
nên tuân thủ trong tinh thần ”Lý tưởng, Bác ái và Phó thác”.
Thánh
Anselm of Canterbury (1033-1109) trong tác phẩm “Cur Deus Homo” Tại Sao Chúa xuống
thế làm người?
“Chúa đến để chuộc tội cho nhân loại bằng cách
thực thi “đức bác ái” trong tinh thần “công chính”.
De Colores
Trần Xuân Thời
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét