TRONG ĐỨC KITÔ
(GS. Nguyễn Văn Thành)
Giới thiệu
Trên 60 năm qua, Phong
Trào Cursillo, một tổ chức quốc tế trong Giáo Hội Công Giáo, đã gây được một
dấu ấn quan trọng nơi những thành viên, khởi sự từ khóa Cursillo. Người tham dự
khóa Cursillo thuộc đủ mọi thành phần, hễ đã tham dự khóa học, đều cảm nhận một
sự thay đổi khá lạ lùng. Ở nhiều người, nó như một dấu mốc tái sinh, một sự lên
đường mới.
Giáo sư Nguyễn Văn
Thành (1), sau khi tham dự Khóa
Tĩnh Huấn Cursillo tại Paris, từ ngày 5 đến ngày 8 tháng 8 năm 1999, đã viết
lại cảm nghiệm của mình trên một cuốn sách có tên là “Trong Đức Kitô” (2).
Anh (3) đã viết khoảng 30 tác
phẩm và khoảng 100 bài viết đủ loại: tôn giáo, tâm lý, giáo dục và văn hóa.
Những công trình Anh đã làm: thiết lập những Trung tâm điều trị các trẻ em chậm
phát triển ở Saigon và Hà Nội. Ngoài ra Anh còn mở ra nhiều khóa học đào tạo các
chuyên viên chăm sóc và điều trị các trẻ em gặp trở ngại. Những công việc Anh
thực hiện cho quê hương cho dân tộc, thật đáng ghi nhớ!
Cuốn sách “Trong
Đức Kitô”, được chia ra 20 Chương trên 170 trang sách, ngắn, dài, tùy theo
cảm hứng. Chúng tôi xin ghi đôi lời đến cuốn sách hiếm quý của Anh Nguyễn Văn
Thành, như sự tưởng nhớ và thương tiếc Anh trong mối giao tình giữa Anh và
chúng tôi. Cũng là dịp giới thiệu với các anh chi trong Phong Trào Cursillo và
bạn đọc về một người bạn hiếm quý này.
Đề cập đến khóa
Cursillo, Anh ghi nhận trong Lời Mở Đường: Cursillo là một khoá học kéo dài ba
ngày về Đức Kitô. Chương trinh tĩnh huấn bao gồm nhiều bài học và nhiều giờ cầu
nguyện. Để nói một tiếng đồng hồ, mỗi rollista phải chuẩn bị lòng mình
trước Thánh-thể, hơn hai ba giờ và có khi hơn nữa. Họ gọi nhau là Cursillista
những người học trò bé nhỏ cũa vị Thầy vĩ đại là Đức Kitô. Người Cursillista
mang trong mình ba sứ mệnh: học hỏi thường xuyên về Đức Kitô, sống cuộc sống
của Ngài và mang Ngài đến cho môi trường gia đình, nghề nghiệp, xã hội, quê
hương và nhân loại. Khoá tĩnh huấn Cursillo kéo dài ba ngày, được so sánh như ba ngày cuối của Đức Kitô
từ tối thứ Năm Tuần-thánh đến rạng ngày Chủ nhật, khi Ngài sống lại.
Cuộc đời còn lại của người Cursillista, khi trở về với môi trường, được mang
tên là “Ngày Thứ tư”. Chỉ có ngày Thứ-tư! ”Linh đạo Ngày Thứ-tư” là thể
thức sống Đức-tin và rao truyền Tin-mừng, trong suốt ngày Thứ-tư của người
Cursillista.
Tiếp theo, Anh dùng sự
hiểu biết và tấm lòng mình trải rộng trong 20 Chương sách mà tôi cố gắng tóm
lược như sau, bằng ngôn từ của chính Anh.
Nguyễn Đức Tuyên
Nguồn: http://ttntt.free.fr/archive/nguyenductuyen2.html
http://www.conggiaovietnam.net/index.php?m=module3&v=detail&ib=36
http://www.conggiaovietnam.net/index.php?m=module3&v=detail&ib=36
NỘI DUNG
Chương
I: Cuộc-đời muôn màu muôn sắc
Chương
II: Chiếc cầu tre lắc lẻo
Chương
III: “Tin là Yêu”
Chương
IV: Con đường Đức-tin diệu vợi
Chương
V: Ánh-sáng đến trong thế-gian
Chương
VI: Trời Mới – Đất Mới
Chương
VII: “Tấm và Cám” trong nội tâm của Chúng ta
Chương
VIII: Đức Kitô trở lại trong vinh quang
Chương
IX: Chuyển hoá môi trường
Chương
X: Mầu-nhiệm Thánh-giá
Chương
XI: Rao giảng Tin-mừng
Chương
XII: Hướng đến một nền Thần học Việt Nam
Chương
XIII: “Anh em hãy vui luôn…” (Thư gửi tín
hữu Philipphê)
Chương
XIV: “Đức Kitô là tất cả” (Thư gửi tín hữu
Côlôxê)
Chương
XV: Trong Đức Kitô (Thư gửi tín hữu
Êphêxô và ý nghĩa Ba lá thư)
Chương
XVI: Thiên Chúa làm “Bụi đất”
Chương
XVII: “Xin đừng sợ”
Chương
XVIII: Hỡi Tín-hữu, ngươi ta ai? (Thư gửi tín hữu Rô-ma)
Chương
XIX: Đức-tin và Văn-hoá
Chương
XX: Thay lời kết – Hãy trao cho nhau một tấm lòng…
Chương I: Cuộc-đời muôn màu muôn sắc
Em
De Colores thân yêu! Hẳn thực trong ba ngày tĩnh huấn Cursillo tại Paris, con
người cũ của Anh đã được chôn vào mồ với Đức Kitô. Cùng với Ngài, Anh đã mở mắt
nhìn thấy ngục tù của cuộc đời đã trói buộc và giam hãm con người của Anh,
trong hơn 60 năm. Cùng với 23 người anh em khác, Anh đã đồng hành chia sẻ. Ai
buồn mà Anh không khóc với họ? Ai khổ đau mà lòng Anh không nhức nhối? Nhờ đó,
tất cả cuộc đời còn lại của Anh sẽ “là một Thánh-lễ Vượt-qua” mãi mãi kéo dài
cho đến ngày thứ năm, khi Đức Kitô trở lại và đem chúng ta “lên Trời”.
Trong
ngày thứ tư còn lại, Anh làm những gì để cuộc đời Anh có thể trở thành một
“Thánh-lễ vượt qua”, không bao giờ có điểm chấm dứt? Bây giờ Anh biết Anh ăn
như Đức Kitô, với sức mạnh trợ lực của Chúa Thánh Thần. Vào ngày thứ tư, Anh đi
ngủ như một hôm nào đó, Đức Kitô đã đi ngủ. Và ngọn đuốc của Chúa Thánh Thần
vẫn luôn luôn cháy sáng trong tâm hồn của Anh.
Để
có thể “mặc lấy Đức Kitô và mọi tâm tình của Ngài”, Anh phải ngày ngày ý thức
một cách thâm sâu “Ngài là lý tưởng” của đời Anh. Lý tưởng là “chết và sống
lại” mỗi ngày với Ngài, nhờ Ngài và như Ngài. Nhằm sống lý tưởng ấy, chúng ta
chỉ có một phương thức duy nhất: “Bám-trụ” vào Ngài. Và cuối cùng, “đứng
thẳng”, không nao núng, không ta thán. Tham dự vào Thánh-giá của Ngài với tâm
hồn đại dương bao la đầy tha thứ.
Cùng
với Giáo-hội, mỗi người chúng ta được sai đi để làm chứng và rao giảng về Tình
Yêu của Thiên Chúa. Hỡi người Anh-chị-em Cursillista, Thánh Thần sẽ hiện xuống
trên chúng ta. Với Ngài, chúng ta có khả năng: “Biến không thành có, hoá bóng
đêm thành mặt trời rạng tỏ. Thần của Thiên Chúa có mặt với chúng ta, trên mọi
nẻo đường xuôi ngược, thăng trầm, chìm nổi. Thánh Thần là hành trang nhiệm mầu
và kỳ vĩ của người Cursillista. Với Chúa Thánh Thần tràn đầy trong tâm hồn, sẽ
không còn có người muốn ngồi trên, ăn trước. Chúng ta tất cả là anh chị em biết
đùm bọc nhau. Biết tha thứ.
Em
De Colores thân mến! Ngày xưa Mẹ Maria cũng là “đoá hoa muôn màu sắc” như Em
ngày hôm nay. Từ ngày thưa “Xin-vâng”, Mẹ chấp nhận làm Mẹ của Đức Kitô, con
của Thiên Chúa. Cũng từ giây phút ấy, Mẹ “muôn sắc muôn màu” đã trở thành người
đầy tớ khổ đau. Mẹ đầy ân phúc trở thành Mẹ “sầu bi”, đứng thẳng dưới chân
thánh giá.
Sau
ba ngày tĩnh huấn Cursillo, cuộc đời của Anh em mình sẽ giống cuộc đời của Mẹ
Maria. Ngày thứ tư của chúng ta sẽ tràn đầy nước mắt và chông gai.
Chương II: Chiếc cầu tre lắc lẻo
Làm
sao tôi quên được chiếc cầu tre cho phép tôi băng qua sông, đi về thăm ngoại?
Hình ảnh “nước trôi cuồn cuộn” ở dưới chân cầu làm tôi rùng mình, chùn chân,
không dám bước tới. Tôi cứ sợ rơi tỏm xuống đó thì hết một cuộc đời đầy răm rắp
mộng mơ. Trong đời sống Đức-tin, cũng có một cái chi “mường tượng” như thế. Đi
theo Mẹ Maria – cho dù phải chạy lốc chốc hết hơi, thở hổn hển – tôi vẫn sung
sướng, an tâm, can trường bước tới.
Một
điều lạ, tôi không bao giờ hiểu được, khi có Mẹ cầm tay dẫn qua, mấy con “quỉ
sứ” kia biến đâu mất. Kỳ lạ hơn nữa, khi nhìn xuống đáy sâu, tôi lại thấy bóng
hình Mẹ và tôi tươi cười trên mặt nước. Đi với Mẹ Maria, “trên những chiếc cầu
tre lắc lẻo” thuộc đời sống Đức-tin tôi cũng an tâm như vậy. Tôi cứ sánh mình
như Đức Kitô, Ngài đã kinh qua và trải nghiệm cuộc đời làm người với Mẹ Maria. Mẹ
luôn luôn có mặt với Ngài, cho nên Ngài đã có khả lực “vâng ý Cha dưới đất cũng
như trên trời”.
Chúng
ta hãy đi qua “những chiếc cầu tre lắc lẻo” của cuộc sống làm người với Đức-tin
của Mẹ Maria. Học nhìn như Mẹ để thấy Trời-xanh. Học nghe lời Chúa như Mẹ,
để cưu mang Đại-dương trong lòng mình.
Chương III: “Tin là Yêu”
Thánh
Gio-an Tông Đồ trong Phúc-âm thứ 4 và hai lá thư của mình, đã nói rất nhiều về
Tình-yêu. Tin là Yêu. Anh em hãy yêu thương nhau để thế gian nhận biết anh em
là đồ đệ của Đức Kitô. Ai nói mình yêu thương Thiên Chúa, mà không yêu thương
anh em mình, người ấy nói dối. Bản chất đích thực của Thiên Chúa là Tình
Yêu.
Tình
yêu trong giáo huấn của Thánh Gio-an không phải là một nhãn hiệu vô hồn. Nói
đến Tình-yêu, Đức Kitô đã thực hiện, dưới con mắt Ngài chứng kiến gần như hàng
ngày trong vòng ba năm: – Đức Kitô đã cúi xuống rửa chân cho các môn đồ của
mình.- Đức Kitô cúi hạ xuống ngang hàng người đàn bà ngoại tình. Sau đó Ngài
ngước nhìn lên và nói với bà: Thầy không tố cáo chị. Thôi chị đi về. Đừng tái
phạm! – Phê-rô đã ba lần chối từ có liên hệ thầy trò với Đức Kitô. Thế mà
Phê-rô vẫn được Ngài đoái nhìn, với tất cả tấm lòng yêu thương, âu yếm “dường
như không có chuyện gì xảy ra!”. Vào những phút giây cuối cùng trên Thánh Giá,
Đức Kitô đã xin Cha Ngài thứ tha cho những ai đã tố cáo, đóng đinh, lăng nhục
và sát hại Ngài.
Phúc-âm
hoá môi trường – Chương trình hành động của chúng ta vào Ngày thứ Tư – phải
chăng là “tình yêu hoá” cuộc sống thường ngày? Nghĩa là lấy tình yêu làm chất
liệu nuôi dưỡng mọi quan hệ tiếp xúc và trao đổi trong lãnh vực gia đình cũng
như ngoài xã hội. Với người xa cũng như người gần. Với anh chị em đồng hương
đồng bào, cũng như với người “ngoại quốc”, người xứ Xa-ma-ri…
Nhờ
vậy, trong ngày thứ tư, chúng ta có khả năng: “Đem yêu thương vào nơi oán
thù, Đem thứ tha vào nơi lăng nhục, Đem an hoà vào nơi tranh chấp, Đem chân lý
vào chốn lỗi lầm..”
Trong
tinh thần và ý hướng ấy, người Cursillista có thể nhắc nhở mình trong suốt ngày
thứ tư:
“Em
là điệu nhạc làm nên bản hoan ca,
Em
là trang sách đắp bồi nên tác phẩm,
Em
là hạt nước trở về nuôi Đại Dương,
Em
là dòng suối gọi lòng người tắm gội!”
Chương IV: Con đường Đức-tin diệu vợi
Sau
ba ngày tĩnh huấn, người Cursillista trở về sống cuộc đời ngày “Thứ-tư” của
mình trong lòng thế gian. Ở giữa môi trường gia đình, xã hội và nghề
nghiệp, họ phải sống thế nào để mọi người có thể nhận biết “họ đã tràn đầy và
thắm nhuần Chúa Thánh Thần”. Và chính Ngài đã sai họ, phải chăng để họ, trong
từng hơi thở và nhịp tim, có thể “làm chứng” về Thiên Chúa Tình Yêu, cho những
người còn ngụp lặn trong hận thù, chiến tranh, chia rẽ, bạo động, kỳ thị?…
Nhớ
lại, trên mọi nẻo đường xuôi ngược của xứ Do-thái, Đức Kitô đã cùng bước với
bao nhiêu người, thuộc mọi thành phần của xã hội. Chỗ nào Ngài đã đi qua, chỗ
ấy người mù được sáng mắt. Người bại liệt đã đứng dậy và đi. Người nghèo được
chúc phúc. Người tội lỗi được tha thứ. Người khát được uống nước trường sinh.
Theo
gương Thầy Chí Thánh, chỗ nào người Cursillista đi qua, chỗ ấy thế gian nhận ra
bước chân của Đức Kitô. Làm con người mới là mặc lấy Đức Kitô. Là
mang những hồng phúc:
Hồng-phúc thứ nhất, “Lo băng bó vết thương còn
lở lói..”Vết thương ở đây là tội lỗi.. Để có thể băng bó vết thương cho người
khác, chúng ta bắt đầu băng bó vết thương cho mình. Và cho nhau. Để thế gian có
thể hối cải, chính người Cursillista hãy canh tân cuộc sống của mình. Nhất là
trong quan hệ giữa anh chị em chúng ta.
Hồng-phúc thứ hai, “Gieo an lạc vào lòng ai
mòn mỏi”. Người Cursillsta có trả lời được cho những tâm hồn đang rối loạn và
xao xuyến: Thiên Chúa hiện diện trong tôi. Quả tim tôi là cung điện của Ngài.
Hồng-phúc thứ ba, “Ngày ngày cưu mang biển
trời cao cả”. Làm Cursillista, chúng ta không thể không đi lại con đường của Mẹ
Maria. Nhờ xương da, máu thịt của chúng ta, Đức Kitô được sinh ra lớn lên, mang
Tin-mừng cho nhân loại. Đi con đường của Mẹ Maria, chúng ta phải can trường
“đứng thẳng” dưới chân Thánh-giá của Đức Kitô.
Hồng-phúc thứ bốn, “Thở Thần-khí biến đời
thành phép lạ”. Nhờ sức tác động của Chúa Thánh Thần, bằng cách này hay cách
khác, chúng ta có thể nối dài phép lạ mà Đức Kitô đã làm tại tiệc cưới ở Ca-na:
Biến nước thành rượu ngon. Biến trời đất này còn tràn đầy đau khổ, còn hận thù
và bạo động…thành Trời-Mới và Đất-Mới.
Chương V: Ánh-sáng đến trong thế-gian
Thánh Gio-an Tông-đồ đã suy niệm về Mầu-nhiệm
Nhập-thể. Để triển khai và trình bày Mầu Nhiệm này, tác giả đã sử dụng ba hình
tượng: Thứ nhất là Ánh-sáng. Thứ hai là Thế-gian. Thứ ba là Đến. Hình tượng có
nghĩa là một hình ảnh chất chứa nhiều ý nghĩa khác nhau. Ngoài ý nghĩa thông
thường, bề mặt, chúng ta có thể dần dần khai mở nhiều ý nghĩa khác nằm ở chiều
sâu, ở bên dưới.
Trong tinh thần ấy, tôi muốn khảo sát ba hình
tượng trên đây.
1. Hình tượng thế gian. Thánh Gio-an đồng hóa thế gian với “bóng
tối”. Một: Thế gian là tất cả những ai đang có mặt trên quả đất này. Mỗi lần
chúng ta không chấp nhận quan hệ yêu thương của Thiên Chúa đối với chúng ta,
chính chúng ta biến mình thành tác giả và nguyên nhân tạo nên bóng tối cho đời
mình. Thế gian là những ai giết chết Thiên Chúa. Và khi làm như vậy, chúng ta
thuộc về thế gian. Chúng ta ở trong bóng tối. Chúng ta là thế gian. Là bóng
tối. Chúng ta đã chết. Không còn sống cuộc sống của Thiên Chúa. Chúng ta phủ
nhận mọi quan hệ giữa chúng ta với Ngài.
2. Hình tượng ánh sáng. Làm sao con người có thể nhìn thẳng mặt
trời, nhất là khi mặt trời ấy là Đấng tạo dựng nên toàn thể vũ trụ, mặt trời,
trăng sao? “Thiên Chúa là Ánh-sáng”: Bởi vì Ngài là nguồn gốc ban sự sống cho
chúng ta. Đồng thời Ngài là quê hương, là nhà, để chúng ta trở về, sau cuộc
hành trình trên mọi nẻo đường của dương thế. Ngoài “Ánh-sáng”, thánh Gio-an còn
thích dùng một hình tượng khác: “Thiên Chúa là Tình Yêu”. Ngài đã yêu thương,
gọi mời chúng ta làm nghĩa tử của Ngài từ trước vô cùng, từ ngày trời đất chưa
được tạo thành.
3. Hình tượng đến. Hình tượng thứ ba trong câu nói của Thánh Gio-an
là Đến. Theo sách Sáng-thế, Thiên Chúa đã đến thăm viếng nhiều lần hai vị tổ
phụ của chúng ta là ông Adong và bà Evà, trước khi họ phạm tội ăn trái cấm.
Trong ba mươi năm, Thiên Chúa đã “làm người” hoàn toàn như chúng ta. Ngài ở
giữa chúng ta. Để mở đường cho Ngôi Lời, Con Thiên Chúa đến thế gian, như Ánh
Sáng chiếu soi bóng tối, Mẹ Maria đã tin vào Tình-yêu của Thiên Chúa. Và nhờ
Đức-tin của Mẹ, Thiên Chúa đã làm người với máu huyết của Mẹ.
Nếu chúng ta có Đức-tin vào Thiên Chúa Tình
Thương, giống như Mẹ Maria, chúng ta cũng sẽ có khả năng đem “Ánh Sáng đến thế
gian”, biến trời đất còn đầy chết chóc và hận thù, thành Trời Mới Đất Mới.
Chương VI: Trời Mới – Đất Mới
Hẳn thực, khi “học lại” mười lăm bài rollo, mà
tôi đã tiếp thu trong ba ngày tĩnh huấn Cursillo, tôi có thể kết luận rằng: bài
nào cũng động viên tôi thực hiện “Trời-Mới Đất-Mới” trong ngày thứ tư của mình.
Nhưng thế nào là Trời-Mới Đất-Mới ? Từng sáng mai thức dậy, tôi phải làm những
gì cụ thể, để ”Trời-Mới Đất-Mới ” trở nên hiện thực trong cuộc đời?
1. Lắm lần, tôi muốn bỏ nhà ra đi. Trèo non, lặn suối, để tìm cho
ra một nơi không có mùa hè oi bức! Một xứ sở không có mùa đông giá lạnh! Tôi
muốn tìm một nơi an bình. Nhưng, đâu đâu, trên khắp cùng mọi đường đi ngõ hẽm
của nhân loại, người vẫn còn bóc lột người. Trong lòng của đất nước, quê hương
mình, con người vẫn còn “làm chó sói” đối với con người. Thậm chí giữa những
cặp trai gái, vợ chồng trước đây đã thề thốt yêu nhau mặn nồng và đắm đuối, nay
cũng chia ly.
2. Hồi tôi còn ở lứa tuổi mười tám đôi mươi, tôi mang hoài bảo làm
cách mạng, thay đổi toàn diện con người. Và làm mới bộ mặt thế giới với tất cả
bầu nhiệt huyết của tôi. Lên tới bốn mươi, tôi mở mắt bừng sáng, nhận thấy rằng
những ấp ủ ngày xưa chỉ là mộng tưởng, hão huyền… Nhờ ngưỡng cửa sáu mươi tuổi,
với bao khổ đau tê tái chồng chất trong cuộc đời, nhất là sau ba ngày tĩnh huấn
Cursillo, tôi đã ý thức một cách thấm thía và triệt để rằng: khu vườn độc nhất
mà tôi có thể chăm bón, gieo vãi và ươm trồng một vài bông hoa… chính là tâm hồn và
cuộc đời của tôi. Nói cách khác, bao lâu Trời Mới Đất Mới chưa đâm chồi nẩy lộc
trong xương da máu thịt của tôi, tôi chưa có mắt để nhìn thấy… Tôi chưa có tai để lắng nghe…
3. Khi tôi tha thứ cho một
người, mặc dù người ấy đang chưởi bới, mạ lỵ tôi… đó là Trời-Mới Đất-Mới! Khi
tôi thinh lặng quì xuống “rửa chân cho một người anh chị em”… đó là Trời-Mới
Đất-Mới! Khi tôi bắt chước Đức Kitô không phê phán… đó là Trời-Mới Đất-Mới. Mẹ Maria
sống khiêm hạ, khó nghèo, chuẩn bị một cung lòng để cưu mang Con Thiên Chúa… đó
là Trời Mới Đất Mới!
Chương VII: “Tấm và Cám” trong nội tâm của
Chúng ta
Những
câu chuyện cổ tích, thần thoại nhằm thông đạt cho con cháu và các thế hệ về sau
những cách sống làm người, những phương thức phục vụ anh chị em bà con thôn
xóm. Mỗi câu chuyện nói được là một giáo trình cô đọng và gói ghém những bài
học về giáo dục, sư phạm và tâm lý còn mang tính thời sự cho đến ngày hôm nay.
Câu
chuyện “Tấm – Cám” là một minh hoạ rõ ràng và súc tích, cho chúng ta nhận thấy
một cách cụ thể: Cha ông chúng ta đã có những kiến thức vững vàng về Phân tâm
học, hằng bốn năm thế kỷ, trước khi khoa học nầy ra đời vào đầu thập niên 1900,
với những công trình nghiên cứu và sáng tác của Bác sĩ tâm thần S. Freud.
Tôi
về phe của Tấm. Đó là lẽ thường tình và tự nhiên, vì Tấm là con người dễ thương
và đáng thương. Tuy nhiên, có bao giờ tôi giật mình tỉnh thức nhận ra rằng: tôi
cũng là Cám, ở một góc độ nào đó, trong cuộc sống thường ngày? Nếu tôi loại trừ
Cám, phải chăng tôi cũng loại trừ một phần của chính mình tôi? Làm như vậy là
tự lường gạt. Tôi khư khư giữ cho mình phần Tốt, mặt Sáng. Đồng thời, tôi
phóng chiếu lên khuôn mặt kẻ khác phần xấu và mặt đen.
Theo
giáo lý của Thánh Phaolô, ”ở đâu tội lỗi tràn trề, ở đó ân sủng thứ
tha cũng chứa chan bát ngát”. Tội lỗi mà Ngài muốn nói tới là tội lỗi được
chúng ta nhận diện và đối diện. Được can trường thú nhận. Không ém nhẹm, che
giấu. Chúng ta cần đấm ngực và sám hối. Thay vì mang mặt nạ hay là có bộ
mặt mồ mả tô vôi.
Đổi
mới bản thân và cuộc đời của chính mình. Từ đó và nhờ đó, người ấy có khả năng
đổi mới mọi người. Đó là đích điểm tốt đẹp nhất cần hướng tới để thực
hiện trong suốt cuộc đời.
Vậy
hởi bạn, hỡi em – chúng ta hãy chọn con đường nào, mỗi lần có nguy
cơ tranh chấp và xung đột giữa chúng ta và anh chị em đồng bào, đồng
loại?
Chương VIII: Đức Kitô trở lại trong vinh quang
Sau
khi Đức Kitô đã về trời, trước sự chứng kiến của các đồ đệ, trong lòng
Hội-thánh từ ngày ấy cho đến hôm nay, người tín hữu luôn luôn trông ngóng ngày
trở lại của Ngài.
Nhưng
Ngài sẽ trở lại khi nào? Một cách đặc biệt, chúng ta cần làm gì, để chính ngày
hôm nay, Ngài có thể trở lại trong bản thân và cuộc đời của mỗi người, cũng như
trong lòng của toàn thể Nhân-loại?
Câu
hỏi thứ nhất: Ngài trở lại khi nào? Đức Kitô sẽ trở lại, chừng nào toàn thể
Nhân-loại khát khao Ngài đến, tin vào Ngài, cần Ngài thực sự trong cuộc sống
làm người.
Câu
hỏi thứ hai: Chúng ta cần làm gì? Khi có khả năng tiếp nối công
trình của Đức Kitô, chúng ta đang hợp tác với Chúa Thánh Thần, để “bổ túc những
gì còn đang thiếu sót”… Chúng ta góp phần mình để làm cho Đức Kitô “trở thành
viên mãn, tròn đầy” trong lòng Nhân-loại.
Nói tóm lại, chừng nào nhờ sức tác động của
chúng ta, do Chúa Thánh Thần thúc đẩy và ban ơn trợ lực, chúng ta có khả năng
làm phép lạ “biến nước thành rượu ngon”, như ở làng Ca-na, lúc bấy giờ Đức Kitô có thể trở
lại lần thứ hai. Trời đất trở thành Trời-Mới, Đất-Mới. Và mỗi người có Đức-tin
vào Đức Kitô được trở nên con người Mới, như Ngài. Với Ngài. Và nhờ Ngài.
Chương IX: Chuyển hoá môi trường
Nhằm chuyển hoá môi trường gia đình và xã hội,
em hỏi tôi: phải làm gì? Bắt đầu từ đâu? Ưu tiên số một là điều gì?
Em cũng như tôi, chúng ta làm Người. Là làm
chủ cuộc đời của chính mình. Hạnh phúc và yêu thương là bản sắc hay là chân
tướng đích thực của chúng ta. Bắt đầu từ giây phút Em thay đổi nội tâm và não
trạng của mình, tự khắc thực tại bên ngoài đã dần dần cải biến.
Trên những con đường lầy lội hôm nay, nếu em
biết mở mắt nhìn, một đoá hoa dại nở ra đâu đó… đang tô điểm cuộc đời của em.
Trong xóm nhà lá, với bao nhiêu trẻ em gầy gò ốm yếu vì thiếu dinh dưỡng… Nếu
em biết mở rộng cõi lòng, em sẽ đón nhận những nụ cười chân tình và tràn ngập
ánh sáng.
Có lẽ Em đang muốn hỏi tôi: Mấy con én mới có
thể làm nên mùa xuân trong lòng Đất-nước và Hội-thánh hoàn vũ? Bao nhiêu và cho
đến bao giờ, tôi không thể nào biết được và trả lời dứt
điểm cho em. Nhưng tôi có thể đoan chắc một điều thật đơn giản: Mỗi con én có
thể tạo nên mùa xuân cho chính mình; nếu nó biết đảm nhiệm cuộc đời từng ngày.
Đảm nhiệm cuộc đời là ra tay bổ túc những gì
đang thiếu sót. Kiện toàn những gì chưa hoàn chỉnh. Rút tỉa bài học từ những
lỗi lầm, lệch lạc, méo mó… Nhận diện và can đảm đối diện. Không giả vờ làm lơ,
nhìn qua chỗ khác, tránh né, đánh trống lãng.
Xây dựng cuộc đời với hai bàn tay lao động của
mình. Không ngửa tay xin xỏ cầu viện. Đổ một giọt mồ hôi, thay vì đứng hô hào
công bình, bác ái. Đốt lên một que diêm, thay vì ngồi nguyền rủa đêm tối.
Đảm nhận cuộc đời như vậy là một cách Cho. Cho
vô điều kiện. Cho bất kỳ một cái gì, một nụ cười, một bàn tay, một hơi ấm, một
chút tình người. Khi biết cho như vậy, em đang trở thành Chúa. Em đang
Sống-lại, như Đức Kitô sau khi Ngài đã Thứ-tha cho kẻ sát hại ngài trên
Thánh-giá. Hỡi Em! Em hãy cho và thứ tha!
Nhờ em, Đức Kitô sẽ trở nên “mọi sự cho tất cả
mọi người” Đức Kitô chính là “Tin-mừng” em gieo vãi khắp mười phương; trên
những con đường của Quê-hương và Nhân-loại. Chỗ nào có Đức Kitô, do em mang đến,
chỗ ấy là Trời-Mới – Đất-Mới! Chỗ ấy là cõi lòng Mẹ Maria. Và chỗ ấy cũng là
Đền-thờ của Chúa Thánh Thần.
Chương X: Mầu-nhiệm Thánh-giá
Mác-cô là đồ đệ thân yêu của Thánh Phê-rô. Đã
một thời Mác-cô tháp tùng Thánh Phao-lô, trên một vài chặng đường truyền
giáo…Cuốn Phúc-âm của thánh Mác-cô ra đời vào một thời điểm Hội-thánh đang bị
truy nã và bắt bớ, nhất là dưới triều đại của hoàng đế Đô-mi-xi-a-nô.
Tất cả những nhận xét ấy cho chúng ta lãnh hội
một phần nào tại vì sao Mác-cô đặt trọng tâm vào Mầu-nhiệm Thánh-giá của Đức
Kitô trong cuốn Phúc-âm của mình. Phải chăng đó cũng là trọng tâm của giáo lý
và đức tin, được Thánh Phê-rô nhắc đi, nhắc lại cho các tín hữu, vào những thời
điểm khó khăn và gay cấn nhất trong đời sống của Hội-thánh, trước lúc lãnh án tử
hình “để giống Thầy”.
Hẳn thực, theo Phúc-âm của Thánh Mác-cô, Đức
Kitô đã ba lần loan báo cuộc Thương-khó và Phục-sinh của mình. Mỗi lần Đức Kitô
loan báo con đường tử nạn của mình, Thánh Mác-cô đều nhấn mạnh rằng: Các môn đệ
không hiểu Ngài muốn nói gì.
Tin vào Đức Kitô làm đồ đệ của Ngài, chúng ta
không thể không chọn lựa Con Đường Thánh-giá. Trên Thánh-giá, Thiên Chúa
Tình-yêu và Thứ-tha hiện nguyên hình, trước mặt thế gian. Nhờ ngôn ngữ
Thánh-giá Thiên Chúa đã mặc khải bản chất và căn cước của mình. Yêu ai phải
chăng là chết cho người ấy? Trên Thánh-giá Thiên Chúa đã diễn tả lòng thứ tha
vô điều kiện của Ngài. Ngài giăng hai tay đón nhận mọi đứa con hoang đàng trở
về. Trong số đó có chúng ta.
Khi biết thứ tha vô điều kiện như Đức Kitô
trên Thánh-giá, chúng ta sẽ sống lại như Ngài. Với Ngài. Và nhờ Ngài. Chúng ta
được đón nhận vào cung lòng của Ngôi Cha. Hơi thở và sự sống của chúng ta là
Chúa Thánh Thần. Nhờ đó, ai giao tiếp với chúng ta, người ấy sẽ trở thành con
cái của Thiên Chúa.
Hỡi người Anh, người Chị Cursillista… Trong
môi trường sinh sống, vào ngày Thứ tư, nhiều Thánh giá lớn bé, nặng nhẹ đang
trải đầy trên đường đi của chúng ta.
Chương XI: Rao giảng Tin-mừng
Thánh Lu-ca là người “Thầy Thuốc” đã đi theo
Thánh Phao-lô trên những chặng đường truyền giáo. Vào cuối đời, Ngài đã cống
hiến cho Hội-thánh hai tác phẩm. Đó là Phúc-âm thứ ba và sách Công vụ
Tông-đồ.
Trong cuốn sách thứ nhất, tác giả đã trình bày
cho chúng ta một điều quan trọng: Đức Kitô sinh ra từ cõi lòng Mẹ Maria, là Tin
Mừng do Thiên Chúa Ngôi Cha gửi đến cho nhân loại.
Trong cuốn sách thứ hai, theo các trình bày
của Thánh Lu-ca, những gì Đức Kitô đã thực hiện trong cuộc đời của Ngài, phải
được chính chúng ta tiếp tục, nối dài trong mọi hang cùng ngõ hẻm của nhân
loại.
Chính ngày Hôm nay, qua máu xương, da thịt của
chúng ta, Đức Kitô đang được sinh ra cho thế trần. Cũng giống như ngày xưa,
Ngài đã sinh ra từ máu xương da thịt của Mẹ Maria, cách đây 2000 năm. Chính
ngày Hôm nay, nhờ chúng ta, Ngài đang chết và sống lại, để Hồng-ân Cứu-độ có
thể sinh hoa, kết trái, trong cõi lòng mỗi người.
Ngày xưa, Chúa Thánh Thần đã ngự xuống trên Mẹ
Maria thế nào, thì ngày Hôm nay, Ngài cũng đang ngự xuống như vậy trên chúng
ta, để chúng ta có thể thực hiện những kỳ công trọng đại trong cuộc đời.
Chương XII: Hướng đến một nền Thần học Việt Nam
Hướng đến một nền thần học Việt Nam là hướng
đến một đời sống Đức-tin sáng ngời như ngọn đuốc giữa lòng dân tộc, liên đới
với những con người Việt Nam mang trong mình bao nhiêu là khổ đau và tồn tại
cũng như bao nhiêu kỳ vọng và giá trị cao cả…
Phải chăng đó là nội dung tôi muốn mạo muội
chia sẻ hôm nay với quí vị quí bạn là những người cũng mang trong mình dòng máu
Tiên Rồng như tôi! Hơn thế nữa, chúng ta tất cả còn mang dòng máu Ba Ngôi Thiên
Chúa trong từng huyết quản của chúng ta, nhờ Bí tích Rửa tội và Hồng phúc kỳ
diệu của Chúa Thánh Linh.
Con đường tôi đang đi, thật ra chính là “hơi
thở” hằng ngày của tôi, được hà hơi tiếp sức bởi Thần khí Chúa để đổi mới tâm
hồn và cuộc đời tôi. “Hơi thở” và sức sống ấy, nói lên lối suy nghĩ và nếp sống
đạo chân thật nhất của tôi, và có khả năng tác động trên đồng bào tôi. Nếu tôi
chưa thực sự “sống lại” với Đức Kitô, làm sao tôi có thể làm cho Đất-nước tôi
“sống lại” với Ngài?
Dựa vào nền tảng thần học nào chúng ta đua đòi
xây cất những ngôi đền thờ đồ sộ bằng gạch đá, giữa một đại dương nghèo đói?
Như vậy, thử hỏi chúng ta chọn tư tưởng và tâm tình nào làm ưu tiên hàng đầu
trong bảng thang giá trị của nền thần học Việt Nam?
Nếu Thiên Chúa đã chọn con đường Nhập Thể,
mang lấy thân phận làm người, chấp nhận trở thành “tất cả trong tất cả” trừ tội
lỗi, thì liệu còn gì có thể cản trở chúng ta mang đến cho người anh em một con
tim, một tình người, một vòng tay huynh đệ, để chúng ta cùng làm người với họ
trong lòng Đất-nước Việt Nam? Nói cách khác, chúng ta phải hướng đến một nền
thần học nào giữa lòng dân tộc?
Theo ý kiến riêng tư và kinh nghiệm bản thân
tôi, bất kỳ một nền thần học chân chính nào – trong đó có nền thần học Việt Nam
mà chúng ta muốn khởi công xây dựng – cũng phải bắt đầu từ mẫu khuôn của
Mầu-nhiệm Nhập-thể: “Thiên Chúa làm người” ở giữa chúng ta, với chúng ta, cho
chúng ta. Và, Thiên Chúa ấy, chính là Đức Kitô, mang tất cả thân phận làm người
như mọi người chúng ta và cùng một lúc Ngài làm “phát ngôn viên” cho Thiên Chúa
Cha đối với nhân loại. Làm thần học theo mẫu khuôn “Nhập Thể”, chúng ta trước
tiên phải “làm người” tại Quê-hương này cùng với đồng bào Việt Nam, và cùng với
Đức Kitô, chúng ta phải là những “phát ngôn viên” của Thiên Chúa.
Như vậy, chỉ có thể phát khởi một luồng suy tư
“thần học Việt Nam” khi chúng ta dứt khoát khẳng định lấy con người Việt Nam
làm “địa chỉ” cho Chúa Thánh Linh, lấy nếp sống và cảm nghĩ của dân tộc Việt
Nam làm cơ sở cho việc sống đạo và hành đạo Chúa. Là Kitô-hữu, chúng ta không
chối bỏ thân phận làm người Việt Nam.
Tôi mang lấy sự sống của Đức Kitô trong thân
phận làm người Việt Nam của tôi, cũng như Chúa Kitô đang nhập thể trong tôi và
sống thân phận người Việt Nam của tôi. Thần học chỉ là một lối nhìn, một lối
kiến giải về thực tại sống đạo của người Kitô-hữu Việt Nam trong lòng dân tộc,
chớ không bao giờ là thực tại ấy. Lối nhìn ấy, lối kiến giải ấy cần được bổ
túc, kiện toàn để giúp thực tại sống đạo ấy mỗi ngày một phù hợp hơn với Tin
Mừng của Đức Kitô giữa lòng Quê Hương Việt Nam.
Chương XIII: “Anh em hãy vui luôn…” (Thư
gửi tín hữu Philipphê)
Hân hoan, vui mừng là chủ đề của lá thư gửi
tín hữu Phi-líp-phê. Lá thư có bốn chương. Qua mỗi chương, Thánh Phao-lô
trình bày một lý do về nỗi niềm hân hoan đang có mặt trong tâm hồn và cuộc đời
của mình.
Trong chương thứ nhất, theo lời tâm sự của
Thánh Phao-lô, sở dĩ Ngài luôn luôn vui mừng vì đối với Ngài, “Sống là Đức
Kitô”. Trong chương thứ hai, Ngài đã bộc lộ cho chúng ta: “vì ngài mang tâm
tình của Đức Kitô trên Thánh-giá”,”Tìm lợi ích cho Đức Giêsu Kitô” và “Phục vụ
Tin-mừng”. Trong chương thứ ba, theo lời giải thích của Thánh Phao-lô, vì
“quê hương chúng ta ở trên trời, và chúng ta nóng lòng mong đợi Đức Giêsu Kitô
từ trời đến cứu chúng ta”. Điểm cuối cùng được trình bày trong chương bốn, là
sức mạnh của Đức Kitô. Ngài là con đường đi, là sức mạnh, ngôi sao đưa lối,
giữa bão táp phong ba, đêm tối hãi hung.
Giáo lý của Thánh Phao-lô được trình bày trong
lá thư gửi tín hữi Phi-lip-phê giúp chúng ta thấy được rằng: cuộc đời không khổ
đau không có mặt, bao lâu chúng ta còn sống trên quả địa cầu nầy. Tuy nhiên,
nếu chúng ta có khả năng chia sẻ với Đức Kitô bao nhiêu khổ đau hằng ngày của
chúng ta, nhờ sức trợ lực của Chúa Thánh Thần, chúng ta đã bắt đầu dấn bước vào
con đường Phục-sinh giống như Đức Kitô. Từ bây giờ và ở đây.
Chương XIV: “Đức Kitô là tất cả” (Thư
gửi tín hữu Côlôxê)
Suốt dòng lịch sử của Nhân-loại, Thiên
Chúa chỉ nói “Một Lời duy nhất”: Đó là Đức Kitô. Từ Cựu-ước qua Tân-ước,
Ngài chỉ mặc khải một mầu nhiệm duy nhất “ đã được giữ kín từ bao thời đại và
qua bao thế hệ” Đó là Đức Kitô.
Để rao giảng Lời Chúa, ngày hôm nay trong thời
đại Ngàn năm thứ ba cũng như để loan báo mầu nhiệm của Ngài, chúng ta chỉ cần
công bố Đức Kitô, một cách rõ ràng, không do dự, úp mở, cắt xén. Đức Kitô là
Tin mừng duy nhất và phổ quát cho toàn thể Nhân-loại. Mọi Tin-mừng khác – ở chỗ
khác, nơi người khác – đều được thu tóm trong Ngài.
Đức Kitô là ai? Ngài là “Danh bất khả
danh”. Thánh Phao-lô, khi trình bày về Đức Kitô, rằng bản sắc của Ngài là
Thiên Chúa. “Đức Kitô là tất cả trong tất cả” cũng có ý nghĩa như “Đức Kitô là
Thiên Chúa”.
Thánh Phao-lô kêu mời người tín hữu hãy nhìn
lại, nhớ lại, ghi nhận những gì Đức Kitô đã làm, để mở mắt ý thức được rằng:
Đức Kitô vừa là “Con người bằng xương bằng thịt” vừa là Thiên Chúa “có trước
muôn loài muôn vật”. Trong Đức Kitô “muôn vật được tạo thành”.
Chương XV: Trong Đức Kitô (Thư
gửi tín hữu Êphêxô và ý nghĩa Ba lá thư)
Ba lá thư của Thánh Phao-lô gửi tín hữu
Phi-líp-phê, Co-lô-xê và Ê-phê-xô có quan hệ khắng khít chặt chẽ với nhau. Lá
thư đầu chuẩn bị lá thư sau. Lá thư sau sáng soi và kiện toàn những lá thư
trước. Các nhà chú giải Kinh-thánh mượn lại hình ảnh Dân Chúa trên đường vào
Đất-hứa để minh họa tiến trình tư duy của Thánh Phao-lô từ lá thư nầy sang qua
lá thư khác. Lá thư gửi tín hữu Phi-líp-phê với chủ đề “Hân-hoan và Vui-mừng”
so sánh người tín hữu như Dân Chúa đang ngày ngày di động trong sa mạc Xi-na-y.
Giữa bao nhiêu thiếu thốn, khó khăn, trắc trở và gian truân… Mắt họ nhìn về,
lòng họ hướng về miền Đất-hứa, mà Thiên Chúa sẽ trao ban cho họ.
Với lá thư gửi tín hữu Cô-lô-xê, chúng ta chia
sẻ niềm tự hào và tự tin của Dân Chúa đang vượt qua sông Gióc-danh, sung sướng,
cảm động đặt những bước chân đầu tiên lên mảnh Đất Quê-hương mà họ cần phải
chinh phục, bằng xương, bằng máu. Bằng nước mắt, mồ hôi, bàn tay và trí thông
minh. Và nhất là với tất cả tấm lòng của mình. Hẳn thực, theo nhận xét của văn
hào Saint Exupéry, duy con tim mới thấy được những điều vô hình. Nhờ con tim,
dần dần vô hình biến thành hữu hình. Làm sao người tín hữu cảm nghiệm được
trong từng thớ thịt và hơi thở của mình lời tuyên xưng “Đức Kitô là tất cả”,
nếu Ngài vắng bóng trong tấm lòng?
Qua lá thư gửi tín hữu Ê-phê-xô, Thánh
Phao-lô, gần 70 lần, khẳng quyết: người tín hữu là những ai ở “trong Đức Kitô”.
Không còn chân trong chân ngoài. Không còn tay cầm cày, mặt vẫn ngoảnh nhìn
lui, bụng dạ ngày đêm thèm nhớ “củ hành, củ tỏi của vùng đất nô lệ”. Dân Chúa
đã “an sinh lạc nghiệp” trong quê hương của mình. Họ là con cái tự do. Họ phải
lột bỏ những tàn tích của những chuỗi ngày làm nô lê, bị đánh đập, áp bức, tệ
đãi… Hay là hai mặt hai lòng, luồn cúi làm tay sai, để có thêm củ khoai, củ sắn
trong tiêu chuẩn phần cơm của mình.
Hai câu thơ của Nguyễn Trãi đã giúp chúng ta
khai mở một phần nào nội dung của Lá thư gửi tín hữu Ê-phê-xô:
“Mở rộng cửa Nhân chờ khách đến.
Vun
trồng cây Đức để nuôi con”.
Nói
khác đi, nếu lá thư Co-lô-xê trình bày bản sắc của Đức Kitô; lá thư Ê-phê-xô
hướng dẫn người tín hữu từng bước đi vào mầu nhiệm lung linh diệu vợi của
Hội-thánh. Theo kế hoạch của Thiên Chúa Ngôi Cha, những gì Đức Kitô đã thực
hiện trong thời gian cuộc sống làm người 30 năm, Hội-thánh của Ngài tiếp nối mở
rộng trong hai chiều kích thời và không gian, cho tới ngày Ngài trở lại trong
vinh quang.
Bản sắc của Hội-thánh là truyền giáo.
Chương XVI: Thiên Chúa làm “Bụi đất”
Ý nghĩa của ngày lễ
“Thiên Chúa Làm Người” vẫn còn là một chấm hỏi khổng lồ trong bản thân và cuộc
đời!
Trong vòng 20 thế kỷ đã qua, hỡi Bình-an,
ngươi ở đâu? Bình an chưa một lần là hoa trái thực sự và lâu bền, chưa một lần
là hồng ân vĩnh viễn cho nhân loại, từ Bắc xuống Nam, từ Đông qua Tây. Cho đến
bao giờ Tin-mừng của Thiên Chúa mới biến thành hành động cụ thể trong mỗi
người?
Phúc cho người nghèo đói! Có thật như vậy
không? Và ở đâu có người đang ngửa tay đi ăn xin, ở đó Thiên Chúa là người ăn
mày! Ở đâu còn có người đang ngã lưng trên vệ đường, để qua đêm… Thiên Chúa là
người vô gia cư!
Ai lớn nhất trong anh em, người ấy phải chăng
làm kẻ nhỏ nhất, cúi xuống rửa chân cho anh em mình? Bao giờ lời nói ấy của Đức
Kitô mới trở thành hiện thực cho những ai sống Đức-tin vào ngài? Và ngày ngày
có sứ mệnh loan truyền Tin-mừng của Ngài?
Thiên Chúa chỉ “nói một Lời”. Chỉ mặc khải một
điều: Đó là Đức Kitô sinh ra trong hang bò. Ngài chấp nhận bị cư xử là tội
nhân. Bị đóng đinh và giết chết trên Thánh-giá. Ngài trở thành “sâu bọ”. Ngài
là người “đầy tớ khổ đau”.
Chừng nào chúng ta cởi hết mọi chiếc áo
Giàu-sang, Danh-vọng và Tiền-tài, bị đóng đinh trần trụi vào Thánh-giá, can đảm
chịu chết đi con người cũ… lúc bấy giờ chúng ta mới có khả năng sống lại và làm
cho địa cầu nhân loại nầy, trở thành “Trời-Mới, Đất-Mới” . Phải chăng đó mới là
Tin-mừng “Thiên Chúa Làm người” ở giữa chúng ta? Ngài chọn lựa làm “bụi đất” để
cho bụi đất trở thành con cái Ngài.
Chương XVII: “Xin đừng sợ”
Mỗi lần có dịp tiếp xúc với thế giới thánh
thiêng, phàm là người, ai ai cũng tỏ ra bối rối, kinh hoàng lo sợ. Họ mất chân
đứng. Họ cảm thấy mình mong manh, yếu kém, bất an, thiếu an toàn. Giữa những
lúc như vậy, họ cần được nâng đỡ, che chở. Mẹ Maria đã lo sợ, khi Mẹ được
Sứ-thần Ga-bi-ri-en đến thăm viếng.
Phê-rô được Đức Kitô cho phép bước đi trên mặt
nước, để đến với Ngài. Bổng nhiên một cơn sóng ùa tới. Phê-rô mất lòng tin,
hoảng hốt la lên: “Xin Thầy cứu con, con chết mất!” Sau khi sống lại, mỗi lần
Đức Kitô đến thăm các tông đồ, họ cũng lo sợ, bán tín, bán nghi Ngài đã làm gì,
để hoá giải nỗi lo sợ của họ?
Đức Kitô tràn đầy và viên mãn ấy là toàn thể
Nhân-loại từ Đông sang Tây, từ Bắc xuống Nam được đổi mới trọn vẹn, nhờ hồng ân
cứu độ và tấm lòng thứ tha vô biên của Thiên Chúa Ngôi Cha.
Đó là nội dung sứ điệp “Anh-chị-em đừng sợ”
của Giáo chủ Gio-an Phao-lô II, khi Ngài sở hữu hoá Lời Chúa để “khai nguyên”
triều đại của Ngài.
Chương XVIII: Hỡi Tín-hữu, ngươi ta ai? (Thư
gửi tín hữu Rô-ma)
Thánh Phao-lô, với lá thư gửi tín hữu Rô-ma,
đã định hướng Đức-tin của mình, để giới thiệu mình cho cộng đoàn mà Ngài có ý
định thăm viếng, trên tuyến đường truyền giáo cho những vùng đất ngoại biên như
Tây-ban-nha…
Bản sắc của người tín hữu bao gồm năm đặc điểm
chủ yếu sau đây: 1- Thiên Chúa Ngôi Cha là nguồn gốc ban phát mọi hồng phúc và
ân sủng, trên trời và dưới đất, từ nguyên thuỷ cho tới ngày hôm nay. 2- Đức
Kitô là Tin-mừng duy nhất của Ngôi Cha ban cho Nhân-loại. 3- Chúa Thánh Thần
hướng dẫn. 4- Hội Thánh của Đức Kitô. 5- Bản sắc của người Kitô hữu.
Nếu bản sắc của Hội-thánh là “truyền-giáo”, sứ
mệnh ấy bắt đầu bằng Tin-mừng “làm người” của Thiên Chúa.
Chương XIX: Đức-tin và Văn-hoá
Cánh đồng Việt Nam cũng như Văn-hoá Việt Nam
do bàn tay, quả tim và trí óc của người Việt Nam không ngừng sáng tạo. Đã đang
và sẽ sáng tạo bằng một tiến trình góp tay liên tục. Trên tiến trình ấy, không
ai bị loại trừ. Mọi người kiện toàn và bổ túc nhau với vốn liếng, năng lực hiện
hữu của mình.
Để xây dựng nền Văn-hoá Việt Nam ấy, mọi tôn
giáo, ý thức hệ, thậm chí những nền văn minh mang tên là đại đồng và những nền
văn hoá được gọi là “hoàn vũ hoá”, đều là những “đóng góp” với điều kiện được
“hội nhập”. Hội nhập có nghĩa là được đưa vào bên trong, được tiêu hoá, thành
xương da, máu thịt của người Việt Nam. Bao lâu còn ở ngoài, một cơ phận được
ghép vào vẫn còn là ngoại lai. Cơ phận ấy vẫn còn là nguy cơ bị toàn bộ cơ thể
loại thải, không được đón nhận. Thậm chí, Thiên Chúa, Đức Kitô, Hội-thánh… vẫn
bị coi là ngoại lai, nếu chính người Việt Nam chưa hội nhập Đức-tin của mình
vào lòng Văn hoá Việt Nam. Chưa tuyên xưng Đức-tin vào Đức Kitô, bằng chính
ngôn ngữ được vun trồng, nuôi sống và phát triển trong môi trường Văn-hoá Việt
Nam.
Để mỗi tôn giáo cũng như mỗi hình thức văn
minh, mỗi ý thức hệ có thể đóng góp phần mình, hơn bao giờ hết, đây là lúc
chúng ta cần can đảm ngồi lại với nhau. Trong một tinh thần bình đẳng và quan
hệ tôn trọng tính khác biệt của nhau, chúng ta cùng nhau lần lượt khảo sát ba
vấn đề chủ yếu:
1. Bản sắc của Văn-hoá Việt Nam bao gồm những đặc điểm nào?
2. Đức tin của các tôn giáo
có khả năng mang lại phần đóng góp nào cho Văn-hoá Việt Nam.
3. Thiếu ngôn ngữ của văn
hoá để diễn tả, trình bày mình, Đức-tin có thể đi vào lòng của quê hương, trở
thành của ăn nuôi sống anh chị em đồng bào hay không?
Nhằm
thực hiện cuộc đổi mới từng ngày ấy, Văn-hoá Việt Nam đề nghị bốn con đường:
Con đường thứ nhất là “bá nhân bá tánh”. Con đường đổi mới thứ hai là “một
miếng ở giữa làng bằng một sàng ở xó bếp”. Con đường thứ ba là dòng máu “làm
Rồng” của Lạc Long Quân có mặt và sôi sục trong mỗi người Việt Nam. Con
đường đổi mới thứ bốn là tấm lòng cao cả của Âu Cơ.
Trong
điều kiện của văn hoá Việt Nam, nếu Đức-tin vào Đức Kitô không sử dụng bốn con
đường đổi mới của văn hoá Việt Nam, được phác hoạ trên đây, Đức-tin sẽ mãi hoài
đứng ở ngoài “niềm ưu tư và nỗi hy vọng” của con người Việt Nam. Thêm vào đó,
nếu Đức-tin biến Hội-thánh thành một “biệt thự kín cổng cao tường”, vấn đề của
người Việt Nam, thay vì được hoá giải, sẽ càng ngày càng trở nên trầm trọng
hơn!
Chương XX: Thay lời kết – Hãy trao cho nhau một
tấm lòng…
Thế
giới đã bước qua thời đại của Ngàn năm thứ ba, với bao nhiêu vấn đề còn ngang
ngửa, bề bộn, trầm trọng và kinh hoàng…
Trong
cuộc đời, nhiều lúc bóng tối cũng giáng xuống bao trùm mọi con đường trong
ngoài, trên dưới, lớn và nhỏ… chúng ta đã đốt lên mọi ngọn đèn… không ngọn nào,
cả những ngọn “lớn nhất” có thể xoá tan bóng tối hãi hùng… Thậm chí trăng sao
từ trời cao, từ vùng ngoài địa cầu…
Giữa lúc ấy chúng ta hãy thắp cho nhau một Tấm
lòng Yêu thương, An bình và Tha thứ. Duy có Tấm-lòng mới có khả năng vượt qua
đêm tối hãi hùng và lan tràn khắp mọi phía…
Với những người có Đức-tin vào Đức Kitô, Tấm
lòng ấy chính là cung đền của Chúa Thánh Thần.
**************************
Trải qua 20 Chương sách, G.S. Nguyễn Văn
Thành đã để hết tâm can, chia sẻ về 3 cuộc gặp gỡ: gặp gỡ chính mình, gặp gỡ
Đức Kitô và gặp gỡ tha nhân. Anh suy tư về 3 ngày dự khóa, Anh duyệt xét lại 14
bài chia sẻ trong khóa học với cái nhìn của một nhà thần học, một nhà
giáo dục và một nhà phân tâm học. Nhưng quan trọng nhất, Anh là một tín hữu đã
để cả cuộc đời phụng sự Thiên Chúa và phục vụ Giáo Hội.
Với một giọng văn thân tình và cởi mở, với
sở trường tâm lý thực dụng, G.S. Nguyễn Văn Thành đã trải nghiệm tâm tư trên
những trang sách. Tôi tóm lược những lời của Anh bằng việc “ghép” những câu
chính, ý chính của Anh lại. Dĩ nhiên, khó mà phản ảnh trung thực những điều Anh
chia sẻ. Tôi không có lời phê bình cuốn sách.
Trong cuộc sống
ngày “Thứ Tư”, tác giả nêu ra những khó khăn thực tại khi người tham dự viên
trở về môi trường trần thế với những thách thức đến từ mọi phía. Trước hết,
phát xuất từ nội tâm, đó là con đường Đức tin, với lòng kiên trì, để mang lại
những hồng phúc; kế đến là trần gian diệu vợi, làm sao ánh sáng có thể
chiếu dọi trần gian, và bước kế tiếp là làm sao cải hóa thế gian để trở nên một
Trời Mới, Đất Mới.
Về việc chuyển
hóa môi trường, theo Anh, khởi sự từ chính lòng mình. Đề cập đến Mầu Nhiệm
Thánh Giá, Nguyễn Văn Thành nhắc nhở chúng ta, đó là con đường theo chân Chúa
trong yêu thương và tha thứ. Công việc Rao Giảng Tin Mừng là việc tiếp nối công
trình của Thiên Chúa trong sự soi dẫn của Chúa Thánh Thần.
Hướng đến một nền Thần học Việt Nam là trăn
trở của Nguyễn Văn Thành. Nền thần học đó mang dòng máu Tiên Rồng và còn mang
dòng máu Ba Ngôi Thiên Chúa.
Trong khi nói về cuốn sách của mình, Anh
viết: “Tôi đã sống năm Đại hồng Ân
2000, theo nhịp tạ ơn, vui mừng và trăn trở của Mẹ Hội thánh. Sau đây, những
bài chia sẻ Tin Mừng trong khuôn khổ sinh hoạt Phong trào Cursillo đã đánh dấu
những đoạn đường ấy.”
Trong Phong trào
Cursillo, ít có người sau khi dự khóa tĩnh tâm, viết cả một cuốn sách, trang
trải tâm tình chia sẻ như G.S. Nguyễn Văn Thành. Anh đã trao cho chúng ta một
tấm lòng. Xin hãy dâng lời cầu nguyện cho linh hồn Phanxicô Xavie và xin Chúa
Kitô sớm đưa Anh về hưởng cõi trường sinh.
Nguyễn Đức Tuyên
(1) Sinh năm 1937 tại Quảng Tri, Linh mục thuộc Tổng Giáo Phận Huế, Nguyên Giám Đốc Trường Thiên Hữu, Huế, Nguyên GS Đại Học Huế và Minh Đức, Saigon, Chuyên viên về tâm bệnh tại các bệnh viện tâm thần tại VN và Thụy Sỹ, Thành viên sáng lập Trung Tâm Văn hóa Nguyễn Trường Tộ, Tập San Định Hướng, Ngày Gặp Gỡ Văn Hóa Việt Nam Hải Ngoại. Đã tạ thế vào lúc 8 giờ ngày 14 tháng 11 năm 2008 tại bịnh viện Fribourg, Thụy Sĩ.
(2) Tủ sách Tình Người
-Lausanne – Thụy Sĩ – Xuân 2001 – Định Hướng Tùng Thư Xuất Bản
(ISBN 2-912554-23-3 – 13 g Rue de l‘ILL 67116 Reichstett, France)
(3)Với tinh thần gắn
bó thân thiết như trong một gia đình, tôi xin phép gọi bằng Anh
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét