Ý NGHĨA VÀ MỤC ĐÍCH CỦA CUỘC HÀNH HƯƠNG
Một trong những hoạt động có ý nghĩa lớn lao mà toàn thể Giáo
Phận Xuân Lộc thực hiện trong Năm Thánh Kim Khánh Giáo Phận là việc Hành Hương
về các Nhà thờ, Nhà nguyện đã được chỉ định. Để việc hành hương sinh nhiều hoa
trái thiêng liêng cho các tín hữu, Ban Phụng Tự kính gửi bài viết này như một
đóng góp cho Năm Thánh, nhằm giúp anh chị hiểu hơn về ý nghĩa và mục đích của
việc hành hương.
I.
Ý NGHĨA CỦA HÀNH HƯƠNG
Hành hương là một phong tục có từ rất lâu trong các tôn giáo cổ,
trước cả khi Kinh Thánh được biên soạn. Đó là cuộc lữ hành của các tín hữu về
một nơi được thánh hiến do một cuộc hiển linh hoặc do hoạt động của một vị giáo
chủ.
Với người Kitô hữu, hành hương là rời khỏi nơi mình ở để đến một
nơi linh thiêng nào đó liên quan đến Chúa (đất Palestina), Đức
Mẹ (Lộ Đức, Fatima…) hay một vị thánh nào đó.
II. HÀNH HƯƠNG TRONG THÁNH KINH[1]
- Hành hương trong Cựu Ước
a.
Hướng về những thánh điện cổ.
Trước khi thống nhất các thánh điện nhờ cuộc cải cách của
Giosias, tại Giêrusalem có nhiều trung tâm hành hương gắn liền với lịch sử
thánh, nơi dân chúng đến để tìm gặp Thiên Chúa như Sikem (Gs 24,25),
Bêtel (1Sm 10,3; 1V 12,29tt), Bersabê (Am 5,5), thánh
điện Silô, nơi để hòm bia và cũng là nơi mỗi năm người ta cử hành một ngày lễ
của Giavê (Qa 21,19).
Những câu chuyện cổ còn thuật lại các buổi hội họp tôn giáo ở
Mispa (1Sm 7,5tt), ở Gilgal (1Sm 11,15), ở Gabaon (1V
3,4), ở Đan (1V 12,19). Nhưng từ khi Đavít rước hòm bia về
Giêrusalem (2Sm 6) và từ khi Salomon xây cất đền thờ (1V
5-8), những cuộc hành hương về Giêrusalem giữ một tầm quan trọng vượt
bực (1V 12,27).
Từ lâu, luật của giao ước (Xh 23,14-17) bắt
buộc mọi nam công dân phải trình diện trước Giavê mỗi năm ba lần vào các dịp lễ
trong các thánh điện trên toàn quốc.
b.
Hướng về thánh điện duy nhất
Cuộc cải cách của Giosias do Ezekias phác hoạ (2V
18,4.22; 2 Ks 29-31) huỷ bỏ những thánh điện địa phương và chỉ định cử
hành lễ Vượt Qua (2V 23 ; 2 Ks 35) và hai ngày lễ khác là Lễ
Ngũ Tuần và Lễ Lều ở Giêrusalem (Đnl 16,1-17).
Cuộc cải cách này đã bị chống đối khi Giosias chết. Nhưng sau
thời lưu đầy, đền thờ Giêrusalem trở thành thánh điện duy nhất. Chính nơi đây,
vào những dịp đại lễ trong năm, khách hành hương từ khắp xứ Palestina và cả đến
những người tản mác ở ngoại quốc cũng trẩy về càng ngày càng đông. Những Thánh
vịnh lên đền (x. Tv 120-134) diễn tả lời cầu nguyện và tâm
tình của khách hành hương: họ trìu mến nhà Chúa và thành thánh;
họ tin, thờ lạy và vui mừng đượchiệp thông vào các cử hành phụng tự của
dân Chúa.
Kinh nghiệm này thường hay xảy ra ở Israel, nó đem lại cho hy
vọng cánh chung một ẩn dụ cảm kích: Israel quan niệm “ngày cứu rỗi”
theo như những cuộc hành hương, giống cuộc hội họp của dân tộc và sau cùng là
của cả lương dân (x. Is 2,2-5 ; 60 ; 66,18-21 ; Mik 7,12 ; Zec 14,16-19
; Tb 13,11).
- Hành hương trong Tân Ước
a.
Tân Ước không đem lại điều gì mới mẻ cho việc hành hương trong
Cựu Ước như vừa trình bày. Cũng như dân chúng, vào năm 12 tuổi, Đức Giêsu “lên”
đền thờ Giêrusalem với cha mẹ theo luật dậy (x. Lc 2,41tt), và
trong thời gian công khai rao giảng Tin Mừng, Người còn “lên” đó vào những dịp
lễ khác nữa (x. Ga 2,13 ; 5,1 ; 7,14 ; 10,22tt ; 12,12).
Thánh Phaolô, hơn 25 năm sau ngày Chúa
chịu nạn, vẫn giữ việc hành hương vào dịp lễ Ngũ Tuần (x. Cv 20,16;
24,11).
b.
Điều mới mẻ là Đức Kitô loan báo Đền Thờ sẽ bị tàn phá (x. Mc
13,2). Hơn nữa, với sự sống lại của Đức Giêsu, từ nay trọng tâm việc phụng
tự của các tín hữu là chính con người vinh quang của Người, “Đền thờ mới” và
duy nhất (x. Ga 2,19-21; 4,21-23).
Bởi đó, chính đời sống đức tin của dân Thiên Chúa được diễn tả
như cuộc hành hương cánh chung đích thực (x. 2C 5.6tt; Dt 13,14).
Cuộc hành hương này là cuộc xuất hành do Đức Kitô hướng dẫn (x. Cv
3,15; 5,31; Dt 2,10). Mục đích của nó là những thực tại thiêng liêng:
Giêrusalem trên trời, cuộc hội họp của những người con đầu lòng được ghi khắc
trên trời (x. Dt 12,22tt) và một đền thờ là chính “Chúa, Thiên
Chúa toàn năng… và là Con Chiên” (Kh 21,22-26).
Vì gắn chặt với lịch sử, nên Hội Thánh không từ chối giá trị
những cuộc hành hương đến những nơi ngày xưa Đức Kitô đã sống hoặc đến những
nơi mà Người đã hiện ra với các thánh. Hội Thánh coi những cuộc tụ họp tại
những nơi ghi dấu hoạt động của Đức Kitô như một dịp để các tín hữu hiệp thông
trong đức tin và kinh nguyện. Hơn nữa, đó còn là cơ hội thuận lợi để Hội Thánh
nhắc cho con cái mình biết: họ đang được Chúa hướng dẫn trên đường tiến về
Người.
III. LINH ĐẠO CỦA VIỆC HÀNH HƯƠNG
Sách “Hướng dẫn về Lòng Đạo Đức Bình Dân và Phụng Vụ” của
Bộ Phụng Tự và Kỷ Luật Bí Tích xác định linh đạo đặc thù của việc hành hương
gồm 5 chiều kích[2] sau:
- Chiều kích Cánh Chung
“Chiều kích chính yếu này là nguồn gốc của việc hành hương:
đó là một cuộc “đi lên Đền Thánh”, nghĩa là một thời điểm và một ẩn dụ về con
đường dẫn đưa tới Nước Trời. Thực thế, cuộc hành hương giúp người tín hữu nhận
thức chiều kích cánh chung của đời mình với tư cách là một người đã
chịu phép rửa. Người tín hữu là một khách lữ hành, mà sự hiện hữu lại ở giữa
bóng tối của niềm tin và sự khao khát thấy thực tại muôn đời, ở giữa giới hạn
chật hẹp của thời gian và khát vọng một cuộc sống vĩnh hằng, ở giữa sự mệt nhọc
phải bước đi trên đường và sự đợi chờ được an nghỉ luôn mãi, ở giữa nước mắt
chốn lưu đầy với ước mong hạnh phúc nơi quê hương trên trời, ở giữa sự xôn xao
của cuộc đời hoạt động và niềm say mê sự thanh thản của chiêm niệm.”
“…Khách hành hương nhận ra rằng: ‘trên đời này chúng ta không
có thành trì nào bền vững’ (Dt 13,14), vì thế, ngoài mục đích trước mắt là Đền
Thánh, người ấy tiến bước qua sa mạc của cuộc đời, hướng về Nước Trời là Đất
Hứa đích thực.” Với nhiều tín hữu, đây cũng là “một cơ hội đặc biệt
thuận lợi để tiếp cận Bí tích Sám Hối.”
“Khi cuộc hành hương được thực hiện đúng cách, người tín hữu
sẽ rời ngôi đền thánh với quyết tâm ‘thay đổi cuộc đời’, nghĩa là hướng
cuộc đời mình về Thiên Chúa một cách cương quyết hơn; như thế, người hành
hương ước mong đem lại cho cuộc sống của mình một chiều kích siêu việt
hơn.”.
- Chiều kích Lễ Hội
“Trong cuộc hành hương, chiều kích Sám Hối đi đôi với chiều
kích lễ hội. Người ta thậm chí có thể xác quyết, chiều kích lễ hội nằm ngay
trung tâm của cuộc hành hương.”
Niềm vui của cuộc hành hương Kitô giáo xuất hiện như sự kéo dài
niềm hân hoan của người lữ hành Israel đã từng cảm nghiệm: “Vui dường nào
khi người ta bảo tôi: chúng ta cùng đi đến nhà của Đức Chúa” (Tv
122,1). Niềm vui ấy góp phần phá vỡ sự đơn điệu của cuộc sống thường nhật
khi tỏ bày một cái nhìn về tương lai khác với cái nhìn của thế gian… Niềm vui
đó cũng xuất hiện như cơ hội để bày tỏ tình huynh đệ Kitô giáo.
- Chiều kích Phụng Tự
“Hành hương chủ yếu là một việc phụng tự: khi tiến bước về
ngôi Đền Thánh, người hành hương đến gặp gỡ Thiên Chúa để hiện diện trước tôn
nhan Người, thờ lạy Người và cởi mở tấm lòng ra với Người… Lời cầu nguyện của
họ mang chiều kích rất đa dạng: ca ngợi và tôn thờ Chúa vì lòng nhân từ và sự
thánh thiện của Ngài; cảm tạ vì những ân huệ đã lãnh nhận; cầu nguyện nhằm thực
hiện một lời khấn đã cam kết trước nhan Chúa; cầu nguyện để được các ơn lành
cần thiết cho cuộc sống; cầu nguyện để xin Chúa tha thứ những tội lỗi đã phạm…”
- Chiều kích Tông Đồ
“… cuộc hành hương là một việc loan báo đức tin, và khách hành
hương là những ‘sứ giả lưu động của Chúa Kitô’.”
- Chiều kích Hiệp Thông
“Người hành hương đi đến đền thánh, hiệp thông trong lòng tin
và đức ái, không chỉ với những kẻ cùng đi với mình trong ‘cuộc hành trình
thánh’ (Tv 84,6) mà còn với chính Chúa nữa…” Họ cũng hiệp thông với cộng
đoàn địa phương của mình và qua cộng đoàn ấy với toàn thể Hội Thánh, tức là với
các thánh trên trời. Họ cùng hiệp thông với toàn thể nhân loại mà những nỗi đau
khổ và niềm hy vọng được đưa vào lời cầu nguyện.
IV. SUY NGHĨ VỀ VIỆC HÀNH HƯƠNG TẠI
GIÁO PHẬN TRONG NĂM THÁNH 2015
Mặc dù không thực hiện một cuộc hành hương đúng nghĩa về thể
chất là đi đến những linh địa, đền thánh mang những dấu ấn đặc biệt, có nhiều
khả năng khơi dậy những cảm xúc đạo đức, nhưng về mặt tâm linh, thì việc hành
hương của chúng ta trong Năm Thánh Kim Khánh Giáo Phận về những Nhà thờ, Nhà
nguyện được chỉ định vẫn mang trọn vẹn ý nghĩa và lợi ích thiêng liêng.
Hành hương Năm Thánh vừa là lời tuyên xưng đức tin, vừa là hành
động biểu lộ lòng biết ơn đối với Thiên Chúa vì muôn ơn lành Người đã thương
ban cho mỗi người, mỗi gia đình chúng ta qua Hội Thánh, mà cụ thể là qua gia
đình Giáo phận.
Hành hương là dịp để chúng ta có thể nhận lãnh ơn toàn xá, đền
bù lại những hình phạt mà tội của chúng ta đã gây ra, hoặc chỉ ơn xá cho các
linh hồn nơi luyện tội. Nhưng điều quan trọng hơn là nhờ ơn Chúa ban, chúng ta
can đảm từ bỏ con người cũ, mà hân hoan tiến bước trên đường trọn lành. Đây mới
là ý nghĩa toàn vẹn mà chúng ta cần hướng về.
Như vậy, hành hương vừa có ý nghĩa thể chất vừa có ý nghĩa tâm
linh. Chúng ta đến một nơi thánh để thờ phượng Chúa, nhưng chúng ta cần đi vào
nội tâm để gặp Người. Nhờ đó, chúng ta cảm nhận tình yêu của Chúa, nhận ra thánh
ý Người trên cuộc đời chúng ta và mau mắn thi hành, để làm vững mạnh những bước
chân lữ hành trên đường tiến về quê thật là Nước Trời.
Lòng nhiệt thành của các linh mục hướng dẫn và nỗi khao khát tìm
gặp Chúa của từng tín hữu là yếu tố thiết yếu để cuộc hành hương sinh nhiều hoa
trái. Chúng ta cần ý thức, tích cực tham dự các cử hành phụng vụ và đạo đức
chung, nhưng cũng cần có những lúc thinh lặng nội tâm để gặp Chúa, để nhìn lại
những ơn huệ Chúa ban và nhận ra những sai sót đời mình.
Xếp đặt chương trình hành hương chu đáo là một điều cần, nhưng
quan trọng hơn, là làm cho nó có được cái ‘hồn’ khi thực hiện trong tác động
của Chúa Thánh Thần. Muốn vậy, sự cộng tác của từng người bằng việc mở lòng ra
với Chúa và với nhau, cùng nhau cử hành các việc đạo đức và phụng vụ trong ý
thức đức tin và lòng mến sâu xa, biết sử dụng những phút giây thinh lặng cần
thiết để cầu nguyện riêng, để biết mình, để tìm kiếm thánh ý Chúa trên đời mình
hầu bắt đầu lại một đời sống mới trong Đức Kitô là những điều thật cần thiết
vậy.
V. Kết luận
Qua Bí tích Rửa tội, đời sống Kitô hữu được tháp nhập vào Mầu
Nhiệm Vượt Qua, bước theo Đức Kitô trên hành trình tiến về Giêrusalem trên
trời. Đời người tín hữu trở thành một cuộc hành hương thiêng liêng nhiều gian
khó nhưng tràn đầy niềm vui và hy vọng.
Mỗi cuộc hành hương của Năm Thánh nếu được hiểu và thực hiện
đúng đắn, chúng ta chắc chắn được đón nhận dồi dào ơn sủng để canh tân đời sống
đức tin. Chúng ta thêm xác tín đời mình là lữ thứ để biết gắn bó hơn với những
giá trị vững bền mà mối mọt không thể gậm nhấm (x. Mt 6,19-20); thêm
khao khát tìm kiếm Chúa như cùng đích hạnh phúc tối thượng đời mình; được thúc
đẩy mạnh mẽ để sống lời dạy của ĐTC Phanxicô: “giao nộp đời mình cho Chúa
Giêsu để sống thiết thân với Ngài”[3]. Một khi có Chúa hiện diện trong lòng, thì đời ta sẽ
hồn nhiên tỏa sáng tình Chúa, tình người vì: “cách chứng minh thuyết phục
nhất chống lại sự chối đạo là sự hiện diện của các thánh nhân và cái đẹp do Đức
Tin trổ sinh”[4]. Đồng thời, khi thực sự sống thiết thân với Chúa,
chúng ta sẽ cảm nhận rằng: Chúa là kho tàng tuyệt đối quý giá của đời ta và
nghiệm ra rằng: “được là Kitô hữu thật là một ân phúc tuyệt
vời” (ĐTC Bênêđictô XVI).
“Ra khỏi chính mình để sống trọn vẹn hơn cho Chúa
và tha nhân” là ý nghĩa của cuộc hành hương nội tâm mà mỗi người chúng ta
mong được củng cố mạnh mẽ hơn sau mỗi lần chúng ta thực hiện cuộc hành hương về
nhà thờ Chính Toà, về Nhà nguyện Toà Giám Mục, về các Nhà thờ đã được chỉ định
trong Năm Thánh này để tìm gặp Chúa, tìm kiếm thánh ý và sức mạnh của Ngài.
Đó chính là điều thiện hảo cao cả mà chúng ta cùng cầu nguyện và
hy vọng cho mỗi người, mỗi đoàn hành hương nhận được trong Năm Thánh này.
ĐCV Thánh Giuse Xuân Lộc, 31/10/2014
Lm. Giuse Đinh Văn Huấn
[1] X. Trích từ Điển Ngữ Thần Học Thánh
Kinh II, Hành Hương, tr. 156-159.
[2] Bộ Phụng Tự và Kỷ Luật Bí Tích, Hướng dẫn
về Lòng Đạo Đức Bình Dân và Phụng Vụ, ban hành ngày 17/12/2001. Chương 8,
số 286. Bản dịch của Ủy Ban Văn Hóa trực thuộc HĐGMVN từ trang 331-335.
[3] Đức thánh cha Phanxicô, Sứ điệp Ngày Cầu
Nguyện cho Ơn gọi lần thứ 50.
[4] Đức thánh cha Phanxicô, Sứ điệp Ngày Cầu
Nguyện cho Ơn gọi lần thứ 50.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét