Hiển thị các bài đăng có nhãn Suy tư - Cảm nghiệm. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Suy tư - Cảm nghiệm. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Ba, 31 tháng 1, 2017

Ước nguyện đầu xuân


Ước nguyện đầu xuân

Mùa xuân Đinh Dậu đang về. Vào thời khắc thiêng liêng chuyển giao giữa năm cũ và năm mới, mỗi chúng ta đều có những ước nguyện cho bản thân và gia đình. Dù thuộc tín ngưỡng nào, người ta cũng tin rằng, những nguyện ước từ trái tim chân thành, được thể hiện trong những giây phút khởi đầu của xuân mới sẽ thành hiện thực. Người tín hữu công giáo tin vào tình thương của Chúa Quan phòng, và vào lời hứa của Chúa Giêsu: “Ai tin thì sẽ được, ai tìm thì sẽ thấy và ai gõ cửa thì sẽ mở cho” (Mt 7,7), nên thường cầu nguyện lúc giao thừa và đi lễ đầu năm để xin ơn lành trong năm mới. Trong niềm phó thác vào tình thương của Chúa, với xác tín rằng Chúa là nguồn mạch mọi ân phúc, chúng ta cùng dâng lên Ngài những ước nguyện đầu xuân.

Ơn đầu tiên mà chúng ta cần cầu nguyện, đó là xin Chúa ban ơn bình an cho thế giới. Bức tranh toàn cảnh thế giới đầu năm 2017 xem ra ảm đạm và tăm tối. Nhân loại lo sợ trước nạn khủng bố đang rình rập từ Đông sang Tây, từ Bắc xuống Nam, từ châu Âu, châu Mỹ rồi tới châu Á. Những cuộc bạo loạn xảy ra khắp nơi. Chiến tranh giết chóc triền miên tại một số nước Trung Đông. Nơi một số quốc gia Hồi giáo và Ả-rập, những Kitô hữu là nạn nhân của các cuộc xung đột. Để duy trì đức tin và bảo toàn mạng sống, họ phải bỏ quê hương, lên đường lánh nạn, chấp nhận bao đau thương trong hành trình tha hương vô định. Cùng với những “nhân tai”, là hiện tượng biển đổi khí hậu, gây nên những hậu quả nghiêm trọng. Nơi này hạn hán, nơi kia lũ lụt, nơi khác tuyết lở, làm cho cuộc sống bị đảo lộn, nhiều người phải sống cảnh màn trời chiếu đất, lâm cảnh đói khát vì mất mùa. Thiên nhiên nổi giận trước sự tàn phá vô trách nhiệm của con người, làm cho môi trường bị ô nhiễm, rừng bị tàn phá, tài nguyên bị khai thác cạn kiệt. Những bệnh nguy hiểm như cúm gia cầm, virút Zika, như những làn sóng lây lan nhanh, rất khó kiềm chế. Trước tình hình thế giới bất an bất ổn này, chúng ta nguyện cầu cho những nhà lãnh đạo các quốc gia, để họ biết dựa trên những nguyên tắc căn bản, tôn trọng quyền con người và lấy hạnh phúc của người dân làm tiêu chí quan trọng cho mọi hành động cũng như mọi quyết định của đường lối chính trị.

Với lòng yêu mến quê hương, chúng ta dâng lời cầu xin Chúa cho tổ quốc và dân tộc Việt Nam được bình an. Thế kỷ trước, đất nước thân yêu mang hình chữ “S” này đã trải qua hai cuộc chiến tranh khốc liệt. Người dân Việt Nam khao khát hòa bình, vì họ đã trải nghiệm những hậu quả của chiến tranh. Không ai muốn nghe tiếng súng đạn, chém giết. Chẳng ai muốn xung đột, chia lìa. Ngày hôm nay, tiếng bom đạn đã chấm dứt trên quê hương, nhưng dân tộc này còn nhiều đau khổ, do nghèo nàn, khó khăn về kinh tế. Nạn tham nhũng như câu chuyện dài chưa có hồi kết, trái lại, ngày một nghiêm trọng và quy mô hơn. Bạo lực tràn lan, gây chết chóc đau khổ cho bao gia đình. Sự cách biệt giữa người sống ở thành thị và nông thôn còn chênh lệch xa vời. Thanh niên nam nữ vì mưu sinh phải rời quê hương, đánh đổi sức lực thanh xuân với đồng lương rẻ mạt nơi xứ người, giống như những nô lệ thời hiện đại. Trong số những “công nhân xuất khẩu”, nhiều người bị bạc đãi, cư xử tệ bạc và thậm chí bị đánh đập đến tàn phế. Những cô dâu Việt, muốn đổi đời, chấp nhận nhắm mắt đưa chân tới một tương lai vô định. Trong số họ, một số ít tìm được hạnh phúc, phần đông còn lại phải chấp nhận thân phận hẩm hiu, tương lai tăm tối, nhiều người đã tự kết liễu đời mình. Ở trong nước, vì lòng tham, người ta làm bất cứ điều gì đem lại lợi nhuận. Lương tâm con người bị coi rẻ, đạo đức con người bị lãng quên. Hậu quả là hàng giả, thực phẩm nhiễm độc tràn lan trên thị trường. Người ta đang giết dần giết mòn một dân tộc. Đã có những “làng ung thư” do nguồn nước bị nhiễm độc. Chúng ta cầu xin cho đất nước được thanh bình, cho mọi người biết tôn trọng tiếng nói của lương tâm, vì lương tâm là luật của Chúa in vào tâm hồn con người. Khi sống theo lương tâm, người ta không dám làm điều xấu, cuộc sống sẽ an bình tốt đẹp.

Chủ Nhật, 6 tháng 11, 2016

Các Thánh là ai?


CÁC THÁNH LÀ...
TÔI LÀ...
  1. Là người biết sống hòa hợp với mọi người.
  2. Là người không e ngại nhìn lại bản thân.
  3. Là người biết xoay vần cùng vũ trụ.
  4. Là người sống đơn giản.
  5. Là người có tâm hồn trẻ thơ.
  6. Là người biết rằng mình rất mỏng dòn.
  7. Là người biết khi nào cần nhún nhường một chút.
  8. Là người biết mình được yêu.
  9. Là người suy nghĩ chín chắn.
  10. Là người không ngừng lên đường.
  11. Là người biết ca hát trong nội tâm.
  12. Là người triển nở như những bông hoa nở đúng mùa.
  13. Là người chấp nhận bị lu mờ.
  14. Là người tôn trọng ý kiến người khác.
  15. Là người sống trong một thế giới thân thiện.
  16. Là người biết cười.
  17. Là người luôn tìm kiếm.
  18. Là người kiên nhẫn chờ đợi.
  19. Là người biết nghỉ ngơi đúng lúc.
  20. Là người biết rằng mình đáng được yêu.

Suy tư - cảm nghiệm: Từ vực thẳm


Từ vực thẳm

Từ vực thẳm, con kêu lên Ngài, Lạy Chúa,

Muôn lạy Chúa, xin Ngài nghe tiếng con (Tv 130,1).

Thánh vịnh 130 diễn tả niềm cậy trông của người Do Thái nơi Thiên Chúa là Đấng cứu chuộc. Đây là một thánh thi thuộc thể loại “lên đền”, tức là người hành hương Do Thái thường hát khi tiến vào Đền thánh Giêrusalem. Phụng vụ Kitô giáo thường sử dụng thánh vịnh này trong các thánh lễ cầu hồn. Đây là tiếng kêu từ vực thẳm của những người cảm nhận rõ thân phận hèn yếu tội lỗi của mình trước mặt Chúa để nài xin Ngài đoái thương cứu vớt. Dù được vang lên “từ vực thẳm”, nội dung thánh vịnh không phải là tiếng kêu bi quan vô vọng, mà là lời cầu nguyện với niềm xác tín cậy trông. Trong tháng cầu cho các đẳng linh hồn, chúng ta hãy suy tư về ý nghĩa của thánh vịnh này.

“Vực thẳm” trước hết là lối so sánh giữa sự cao cả của Thiên Chúa và sự hữu hạn của kiếp người. Quả vậy, Thiên Chúa chí thánh vượt xa con người phàm trần tội lỗi. Ý thức được sự bất xứng của mình, tác giả Thánh vịnh vẫn cả dám thân thưa với Chúa. Lời van nài của ông như vọng lên từ đáy vực sâu, và ông vẫn tin rằng Chúa sẽ nghe lời kinh thống thiết ấy. Không mặc cảm vì thân phận phàm hèn, chẳng thất vọng vì Chúa ngàn trùng xa cách, người tín hữu đang gặp thử thách gian nan vẫn vững lòng cậy trông và tin rằng Chúa sẽ nhận lời cầu nguyện của họ. Dẫu biết rằng tiếng kêu của mình giống như tiếng kêu từ vực thẳm, điều mà trong thế giới loài người tưởng chừng như vô nghĩa và vô vọng, tác giả vẫn chắc chắn rằng Chúa sẽ nghe và “lắng tai để ý”.

Khái niệm “vực thẳm” ngăn cách giữa Thiên Chúa và con người cũng là một cách khiêm tốn thú nhận, nếu Chúa chấp tội theo kiểu người đời, thì chẳng có ai được cứu rỗi. Bởi lẽ con người ta ở đời chẳng lập công gì cho xứng. Nếu Chúa tha tội, là vì Ngài giàu lòng xót thương, chứ không phải vì công lao của chúng ta. Lời Thánh vịnh tóm lược giáo huấn của Cựu ước về lòng khoan dung nhân hậu của Thiên Chúa. Ngài “chỉ giận, giận trong giây lát, nhưng yêu thương, thương suốt cả đời” (Tv 29,6). Lời cầu nguyện từ vực thẳm xuất phát từ niềm xác tín: “Bởi Chúa luôn từ ái một niềm”. Là Đấng từ ái bao dung, Thiên Chúa sẽ cứu giúp và sẽ cứu chuộc các tội nhân. Tin tưởng vào tình thương của Chúa, người tin Chúa vẫn tín thác một niềm: “Dù qua lũng âm u, con sợ gì nguy khốn, vì có Chúa ở cùng. Côn trượng Ngài bảo vệ, con vững dạ an tâm” (Tv 23,4).

Theo Giáo lý Công giáo, những người đã qua đời mà còn vướng mắc tội lỗi, thì họ cần phải được thanh tẩy trước khi xứng đáng ra trình diện trước nhan Đấng Tối cao. Nơi họ chịu thanh tẩy, được gọi là “Lửa luyện tội”, hoặc “Luyện ngục”. Sự hiện hữu của luyện ngục chứng minh Thiên Chúa vừa là Đấng công bằng, vừa là Đấng bao dung. Vì công bằng, nên những ai trước khi đến với Ngài phải đền bù tội lỗi họ đã phạm; vì bao dung, nên Ngài cho một cơ hội để tội nhân được thanh tẩy hết tội nhơ. Lời kinh “Từ vực thẳm” như một lời tự sự của các linh hồn đang bị giam cầm nơi luyện ngục. Chính từ nơi luyện tội này, mà các linh hồn cảm nhận được vực thẳm của sự yếu đuối tội lỗi, cũng là vực thẳm giữa Thiên Chúa chí thánh và con người phàm trần. Tại nơi này, các linh hồn bị thiêu đốt, không chỉ do ngọn lửa hình phạt, nhưng còn thiêu đốt do lòng khao khát được về với Chúa như về với cội nguồn. Nếu trong cuộc sống trần thế, chúng ta không cảm nhận được sự thánh thiện và vinh quang của Thiên Chúa, thì nơi luyện tội, các linh hồn lại thấy rõ những điều ấy. Vì thế mà lòng khao khát được kết hợp với Chúa càng trở nên mãnh liệt, để rồi, “mong đợi Chúa, tôi hết lòng mong đợi, cậy trông ở lời Người”.

Chủ Nhật, 30 tháng 10, 2016

Suy tư - cảm nghiệm: Nên Thánh Giữa Đời


Nên thánh giữa đời

Theo giáo lý Công giáo, các thánh là những người sống tốt lành đạo đức trong cuộc sống trần gian, và nay, sau khi đã kết thúc hành trình trần thế, họ đang được hưởng hạnh phúc thiên đàng. Khi sống ở đời này, họ đã kiên trì cộng tác với ơn Chúa, nỗ lực cố gắng để vượt qua những cám dỗ đời thường và sống trọn lành, thanh tịnh. Giáo Hội Công giáo tôn những tín hữu này là những đấng thánh, vì họ phản ánh trung thành sự thánh thiện của Thiên Chúa. Có những vị thánh đã trung kiên theo Chúa và làm chứng cho Ngài, dù phải đổ máu, như trường hợp các thánh tử đạo. Các vị thánh theo đúng nghĩa là những vị được tôn phong và được tôn kính trên các bàn thờ. Cũng có những vị thánh, dù không được Giáo Hội phong thánh, nhưng trước mặt Chúa, họ tinh tuyền thánh thiện và đang cùng với triều thần ca ngợi vinh quang của Đấng Tối Cao. Trong số đó, có những người thân của chúng ta, có những người suốt đời âm thầm gieo hạt công bình bác ái, có những người chỉ đơn giản chu toàn bổn phận của mình một cách trọn vẹn, có những người dù nghèo khổ, cơ hàn, bệnh tật, nhưng vẫn vững một niềm cậy trông.

Từ buổi sơ khai của Giáo Hội, những người tin Chúa và gia nhập Đạo được gọi là “các thánh” hoặc “dân thánh”. Thánh Phaolô, trong các thư giáo huấn của ngài, đã để lại cho chúng ta những chứng từ này (x. 1Cr 1,2). Họ hiệp thông với nhau trong kinh nguyện, trong đời sống và trong những nghĩa cử chia sẻ bác ái. Nhờ lời giảng dạy của các tông đồ, họ say sưa tìm kiếm Đấng quyền năng vô biên mà họ gọi là Thiên Chúa. Ngài là Đấng ngàn trùng chí thánh, hoặc là Nguồn của mọi cội nguồn. Đức tin khẳng định với họ, Thiên Chúa là Đấng tạo dựng vũ trụ muôn loài. Con tim nói với họ, Chúa là Đấng đáng yêu mến và kính tin. Hành trình đức tin của họ cũng là hành trình tìm kiếm Chúa. Những con tim khao khát Chúa chẳng bao giờ thỏa mãn, vì càng khám phá ra Chúa, thì lòng ao ước muốn kết hợp lại càng thâm sâu mãnh liệt hơn. Thánh Augustinô là một ví dụ điển hình. Ngài đã viết: “Lạy Chúa, Ngài đã dựng nên chúng con để hướng về Ngài, và tâm hồn chúng con không nghỉ ngơi cho đến khi nghỉ yên trong Ngài”.

Thứ Sáu, 7 tháng 10, 2016

Suy tư cảm nghiệm - Nghệ thuật lãnh đạo


Luận về

NGHỆ THUẬT LÃNH ĐẠO

Lãnh đạo là một nghệ thuật. Ví phỏng mọi người bình thường đều có tiềm năng lãnh đạo ngang nhau, nhưng nếu tiềm năng không được trao đổi và phát triển thì khó có thể trở thành người lãnh đạo. Những người có khả năng lãnh đạo thực sự là những người tạo dựng được hoàn cảnh và thời thế; là những người tổ chức được đoàn thể, quy tụ được nhiều thành phần hưởng ứng chủ trương đường lối phục vụ nhân sinh và thực hiện được chương trình kế hoạch đã định.
Lãnh đạo khác với chỉ huy, mặc dù kinh nghiệm chỉ huy giúp ích rất nhiều cho vấn đề lãnh đạo. Các trưởng cơ quan hay đơn vị thường được gọi là chỉ huy trưởng, trưởng cơ sở… đảm nhiệm vai trò điều hành một đơn vị để phối trí và thực hiện một số công tác chuyên môn do luật định, nghĩa là những người chỉ huy phải chu toàn nhiệm vụ trong khuôn khổ quyền hạn và trách nhiệm đã được quy định…
Nhiều người lấy làm thắc mắc vì sao trong 40 năm tị nạn, một số người có chức cao quyền trọng trong xã hội Việt Nam Cộng Hòa, ít thấy xuất hiện để cứu dân độ thế.
Lý do là trong các sinh hoạt quốc gia, các nhân viên phục vụ trong các ngành dân, quân, cán, chính thường sống lâu ra lão làng, được bổ nhiệm vào các chức vụ chỉ huy nếu hội đủ một số tiêu chuẩn do quy lệ ấn định. Các cấp chỉ huy, trưởng cơ quan có nhiệm vụ và khả năng chuyên môn hạn chế tùy từng ngành riêng biệt.
Trong kinh nghiệm chỉ huy đó, có người chỉ có khả năng sinh hoạt trong ngành chuyên môn của mình, có người có khả năng sinh hoạt trong nhỉều lãnh vực khác nhau.
Những người có khả năng sinh hoạt trong nhiều lãnh vực khác nhau, tự học hỏi và thăng tiến có triển vọng trở thành những người lãnh đạo. Lãnh đạo đòi hỏi sự biến ứng, đa năng và đa hiệu, thích ứng với hoàn cảnh vô thường của cuộc sống.
Người lãnh đạo khác với người thường là quyết định của họ sẽ ảnh hưởng đến sự hình thành quyết định của người khác. Ý kiến của họ giúp được nhiều người khác thăng tiến sự hiểu biết. Thái độ xử thế của họ có thể tạo nên thái độ mẫu mực cho người khác noi theo.
Người lãnh đạo là người có “NHÂN”, thể hiện qua tinh thần hợp tác với các cộng sự viên và người đồng hành để thực hiện lý tưởng. Người lãnh đạo là người có “TRÍ” với nhiều sáng kiến, có đủ khă năng để quyết định những công tác hữu ích cho đoàn thể, cho cộng đồng, cho nhân quần xã hội. Là người có “DŨNG” để can đảm thực hiện sáng kiến hữu ích; không lùi bước trước gian nguy thử thách.

Chia sẻ cảm nghiệm - Ý nghĩa Ultreya

Ý NGHĨA của

Ultreya là gi?
Decuria tiếng Latin có nghĩa là một nhóm 10 người.
Trong Khoá Cursillo, Tham dự viên được chia ra nhiêu nhóm (Decuria) để sinh hoạt, chia sẻ kiến thức, kinh nghiệm, chia sẻ tình bạn, cảm nghĩ về các bài chia sẻ về làm thế nào để tạo cho mình một lý tưởng, sống trong Ơn phúc, thi hành sứ mệnh người tín hữu trong Giáo hội, biết phương cách sùng đạo, học đạo, hành đạo để trở thành người lãnh đạo trong môi trường mà chúng ta đang sống….
Sau mỗi ngày, các nhóm (Decuria) ngồi lại với nhau để chia sẻ những gì đã nghe và thảo luận trong ngày. Gặp gỡ nhau sau một ngày làm việc của nhiều nhóm gọi là Ultreya để chia sẻ cảm nghĩ, để tâm sự, là cơ hội tâm tình mang lại nhiều thích thú và là một kỷ nỉệm khó quên như bản nhạc vàng ru trọn đời mình. Kỷ niệm về những gì xảy ra trong Khoá Ba Ngày sẽ được tiếp nối trong Ngày Thứ Tư sau khi xuống núi qua các buổi hội nhóm và Ultreya. Ultreya, tiếng Tây Ban Nha có nghĩa là tiến lên trên con đường làm dậy men môi trường và biến đổi các môi trường chúng ta đang sinh sống theo tinh thần Phúc Âm.
Sự hội ngộ nầy không phải ngẫu nhiên hay chỉ là một phần thông thường của phương pháp Cursillo mà bắt nguồn từ nguồn gốc thiêng liêng mà Thánh Phaolô đã ghi lai qua Kinh Thánh về sự mong đợi được gặp gỡ những người thân thương.
Thánh Phaolô, quan thầy của Phong trào Cursillo, trong thư gởi tín hữu thành La Mã đã viết: ‘Thiên Chúa là đấng tôi hết lòng thờ phượng khi loan báo Tin Mừng về Con của Người, chính Người làm chứng cho tôi là tôi hằng nhắc nhở đến anh em, mỗi khi cầu nguyện, tôi xin Người cho tôi có ngày nào được dịp tốt dến thăm anh em, nếu Người muốn. Thật vậy, tôi rất ước ao được gặp anh em, để mong chia sẻ với anh em phần nào ân huệ của Chúa Thánh Thần, nhờ đó anh em vững mạnh, nghĩa là để chúng ta cùng khích lệ nhau, bởi vì cả anh em lẫn tôi, chúng ta đều chung một niềm tin” “For God is my witness, whom I serve in my spirit in the Gospel of his Son, how unceasingly I make mention of you, always imploring in my prayers that somehow I may at last by God’s will  come to you  after a safe journey.  For I long to see you, that I may impart some spiritual grace unto you  to strengthen you , that is, that among you and I  may be comforted together with you by that faith which is common to us both, yours and mine”  (Rom 1: 9-12). 
Lời Thánh Phaolô là khuôn vàng thước ngọc cho cấp lãnh đạo và các anh chị Cursillista. Đến hội họp để thông phần ân huệ và khích lệ lẫn nhau, để cùng nhau tiến thoái trên hành trình tự cải hoá và cải hóa tha nhân. Với tinh thần hiệp nhất trong Ngày Thứ Tư, sau khi xuống núi, Cursillista cần duy trì ngọn nến Cursillo được thắp sáng như thấy Chúa hằng ngày và chia sẻ với anh chị em Tin Mừng, cảm nghiệm sống đạo trong ơn phúc. Với tâm tình của Thánh Phaolô, Cursillista mong mỏi được hội họp với quý anh chị Cursillista khác hằng tuần, hằng tháng, hằng năm qua các buổi hội nhóm và đại hội Ultreya, đại hội Vùng hay Toàn quốc để sống Ngày Thứ Tư trong ơn phúc của Chúa.

Phút suy tư: Kinh Mân Côi - Lời kinh cuộc đời

Kinh Mân Côi – Lời kinh cuộc đời
 
Trình thuật về cuộc gặp gỡ giữa Sứ thần Gabrien với Trinh nữ Maria trong Tin Mừng Thánh Luca đã trở thành điểm khởi đầu cho một chuỗi 20 mầu nhiệm Mân Côi, được chia ra bốn phần: Mùa Vui, Mùa Sáng, Mùa Thương và Mùa Mừng. Với lời thưa “Xin vâng” của Trinh nữ Maria, Ngôi Lời đã nhập thể làm người và cư ngụ giữa nhân loại. Đây là khởi đầu của một cuộc sáng tạo mới. Cuộc sáng tạo thứ nhất đã bị hoen màu tội lỗi do sự bất tuân của Ađam và mọi thế hệ kế tiếp. Trong Đức Giêsu, Thiên Chúa sẽ canh tân mọi vật mọi loài. Khởi đi từ mầu nhiệm Truyền tin, Kinh Mân Côi dẫn chúng ta từng bước theo Đấng Cứu thế, chiêm ngưỡng và suy tư từng biến cố của cuộc đời Người. Từ thời thơ ấu của Chúa ở làng quê Nagiarét, đến tuổi trưởng thành, lên đường thực thi sứ vụ loan báo Tin Mừng. Từ lời giảng dạy đơn sơ mà đầy khôn ngoan đến những phép lạ kỳ diệu chứng minh quyền năng Thiên Chúa. Từ cuộc khổ hình thập giá đến sự phục sinh và lên trời vinh quang. Mỗi mầu nhiệm đều mời gọi chúng ta đón nhận những thông điệp Chúa muốn truyền đạt. Qua Kinh Mân Côi, dung nhan Chúa Giêsu được phác họa, giáo huấn của Người được chuyển tải và tình thương của Thiên Chúa được thể hiện.

Thứ Sáu, 30 tháng 9, 2016

PST tháng Mân Côi: Lời chào huyền diệu

Lời chào huyền diệu
Chào hỏi là cử chỉ đầu tiên khi hai người gặp gỡ nhau. Tùy theo cách thức chào hỏi mà người ta nhận ra mối tương quan giữa hai người, cũng như địa vị của họ. “Ave Maria – Kính chào Bà Maria” là lời chào của Sứ thần Gabrien trong ngày truyền tin. Lời chào ấy, vừa thể hiện sự kính trọng, vừa là lời tôn vinh các nhân đức của Đức Trinh nữ. Lời chào thân thương ấy đã trở thành lời kinh quen thuộc của người Công giáo chúng ta.
Thánh Luca là tác giả duy nhất ghi lại cuộc gặp gỡ lịch sử giữa Sứ thần Gabrien và Đức Trinh nữ thành Nagiarét. Sự kiện này được chính Đức Maria kể lại cho tác giả như một dấu ấn đặc biệt trong cuộc đời mình. Gabrien là vị sứ thần được Chúa sai từ trời xuống chào kính Đức Trinh nữ và loan báo mầu nhiệm Nhập Thể. Đây thật là lời chào huyền diệu, hàm chứa những ý nghĩa sâu xa. Lời chào này không chỉ khởi đầu cho cuộc gặp gỡ giữa cá nhân, mà còn là khởi đầu của công cuộc Nhập thể cứu độ trần gian.
Trong Cựu ước, nhiều cuộc gặp gỡ giữa các thiên sứ (hay người của Thiên Chúa) với người phàm được ghi lại, như trường hợp của ông Abraham hay các ngôn sứ. Tuy vậy, không có một cuộc gặp gỡ nào được diễn tả với thể thức chào hỏi kính trọng, như lời chào của Sứ thần Gabrien. Lời chào của Sứ thần là lời chào của chính Thiên Chúa, Đấng sai Sứ thần đến gặp Đức Trinh nữ Maria. Sứ thần có sứ mạng chuyển tải một thông điệp, với nội dung như Đấng sai mình đã truyền dạy.

Thứ Năm, 4 tháng 8, 2016

Thông điệp WYD 2016: Anh em hãy là những chứng nhân của niềm hy vọng cho thế giới hôm nay!


Chứng nhân niềm hy vọng

Bất cứ ai có dịp tham dự Ngày Giới trẻ Thế giới đều có chung một cảm nhận, đó là niềm vui lan tỏa nơi mọi người tham dự. Khi tham dự biến cố quan trọng này, mọi người phải hy sinh và chấp nhận nhiều bất tiện. Vì số tham dự viên quá đông, nên họ phải mang theo túi ngủ, để có thể qua đêm trong những phòng thi đấu thể thao, những trường học hoặc trung tâm văn hóa. Vấn đề ẩm thực cũng vậy, Ban Tổ chức phát phiếu ăn cho mỗi người và họ có thể lãnh đồ ăn tại các điểm phân phát hoặc tại một số nhà hàng. Phần ăn thường là cơm hộp và rất đơn sơ. Vì lý do an ninh, việc kiểm soát được tăng cường tối đa với lực lượng an ninh dày đặc. Các tham dự viên cũng phải đi bộ rất nhiều trong những ngày này, vì phương tiện công cộng không thể đáp ứng nhu cầu di chuyển. Các bạn trẻ phải đi bộ từ 8 đến 10 kilômét từ nơi trọ để đến tham dự các buổi giáo lý đa ngữ và những cử hành chung như lễ khai mạc (chiều thứ Ba), đón tiếp Đức Thánh Cha (chiều thứ Năm), ngắm đàng Thánh Giá (chiều thứ Sáu), Cầu nguyện canh thức cùng với Đức Thánh Cha (chiều thứ Bảy) và lễ bế mạc (sáng Chúa nhật). Mặc dù vất vả như vậy, nhưng nơi mỗi người tham dự, chúng ta đều gặp thấy toát lên niềm vui. Trong lời chào mừng Đức Thánh Cha trước thánh lễ bế mạc sáng Chúa nhật, Đức Hồng Y Stanislaw Dziwisz, Tổng Giám mục Krakow đã nói: “Thưa Đức Thánh Cha, các bạn trẻ khắp thế giới về Krakow để gặp gỡ Đức Thánh Cha và để làm chứng cho niềm vui của Đức tin…”. Dường như các bạn trẻ quên hết mọi mệt mỏi, quên hết những khác biệt về văn hóa. Niềm vui của họ rất đơn sơ và chân thành. Con đường xa không làm họ nản lòng, vì họ được gặp Vị Chủ Chăn của Giáo Hội và được gặp gỡ nhau. Đây là dịp các bạn trẻ thể hiện sức mạnh và niềm vui của Đức tin. Về nơi này, họ cũng diễn tả một hình ảnh sinh động của Giáo Hội Chúa Kitô, bao gồm mọi sắc tộc, ngôn ngữ và văn hóa. Danh Thiên Chúa đáng ca tụng bằng tất cả mọi ngôn ngữ trên thế gian này. Cuộc gặp gỡ của giới trẻ thế giới đã chứng minh điều đó.

Trong Ngày Giới trẻ Thế giới lần thứ 31 này, cùng với các bạn trẻ đến từ khắp nơi trên thế giới, có các bạn đến từ Irắc, từ Li Băng và từ Syria, là những nước đang có chiến tranh khốc liệt. Người dân phải rời bỏ quê cha đất tổ để giữ gìn mạng sống, tạo thành làn sóng khổng lồ những người di dân đến những chân trời vô định. Những Kitô hữu phải lên đường để giữ đức tin và để tránh những cuộc tàn sát đẫm máu. Tương lai của họ rất mờ mịt ảm đạm. Trong phần chia sẻ những chứng từ trước giờ cầu nguyện canh thức, trong nước mắt và nghẹn ngào, các bạn trẻ này đã nói lên sự lo âu của họ cùng với những nguy hiểm rình rập họ mỗi ngày. Trong bối cảnh đó, họ vẫn vững tin vào Thiên Chúa và hy vọng vào lòng thương xót của Ngài. Họ cũng xin các bạn trẻ có mặt cầu nguyện cho đất nước và dân tộc của họ, để chiến tranh chấm dứt và mọi sắc tộc, tôn giáo cùng nhau chung sức xây dựng tương lai.

Ngỏ lời với các bạn trẻ trong đêm canh thức, thứ Bảy, 30-7-2016, trước sự hiện diện của khoảng 1,6 triệu bạn trẻ, Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói: “Chúng ta không muốn chiến thắng hận thù bằng chính sự hận thù; chiến thắng bạo lực bằng việc gia tăng bạo lực; chiến thắng sự kinh hoàng bằng việc gia tăng mối kinh hoàng. Câu trả lời của chúng ta đối với thế giới đang có chiến tranh, đó là tình huynh đệ, sự hiệp thông, gia đình”. Vị Giáo Hoàng mang tước hiệu của Thánh Phanxicô, vị thánh của hòa bình, mong muốn các bạn trẻ Công giáo trên toàn thế giới hãy là những người chiến thắng bạo lực bằng hòa bình, chiến thắng gian dối bằng chân lý và chiến thắng chia rẽ bằng tình huynh đệ. Đó chính là “vũ khí” đầy sức mạnh và hiệu quả của các môn đệ Chúa Kitô. Ngài kêu gọi mọi người có mặt hãy dành giây lát thinh lặng, tay nắm tay, cùng giơ cao để cầu nguyện theo ý ấy. Ngài cũng kỳ vọng nơi giới trẻ, sau khi tham dự biến cố quan trọng này, hãy trở nên những chứng nhân của niềm hy vọng trong một thế giới đang lãng quên Thiên Chúa. Con người thời nay chủ trương tự do, nhưng lại tự giam mình làm nô lệ của vật chất tiền bạc, của những quan niệm hẹp hòi, của điện thoại, máy vi tính và của một nền kỹ nghệ khô khan, biến con người thành những cỗ máy vô hồn. Bởi sự ràng buộc đó, người ta sống ích kỷ, lãng quên tha nhân. Họ đào những hố sâu, xây những bước tường ngăn cách ngay giữa các thành viên trong một gia đình. Cần phải giải thoát khỏi những ràng buộc này để mỗi bạn trẻ trở thành người tự do.

Thứ Năm, 30 tháng 6, 2016

Phút suy tư: Lòng tốt

Lòng tốt
Lòng tốt là những việc làm cao đẹp nhằm giúp đỡ người khác. Lòng tốt đã tồn tại nơi con người từ khi họ xuất hiện trên trái đất, như một thuộc tính được Thượng đế phú bẩm. Nhờ lòng tốt, con người quan tâm và sống tình liên đới với tha nhân. Trong một xã hội hiện đại, lòng tốt càng ngày càng hiếm và trở thành một thứ “xa xỉ phẩm”. Những hành động tự nó là đơn giản, nhằm giúp đỡ người khác trong mối tương quan người với người đã trở thành “hành động lạ” và hiếm hoi. Gần đây, một số báo điện tử đưa tin và hình ảnh anh lái xe taxi đã dừng xe để đưa một cụ già sang đường ở Hà Nội. Hành động này lập tức được coi là một “hành động lạ”, được nhiều người tán dương và bình luận với những ý kiến rất tích cực. Giúp đỡ người cao tuổi là lời khuyên của ông bà cha mẹ đối với trẻ em khi chập chững vào đời và là bài học thời “vỡ lòng” mà nay được coi như một nghĩa cử anh hùng! Bởi lẽ những hành động này rất ít thấy trong cuộc sống, do nhiều nguyên nhân khác nhau: hoặc người ta quá bận rộn, không có thời gian, hoặc con người đã trở nên vô cảm dửng dưng đối với người khác. Cũng có khi lòng tốt bị nghi ngờ, dẫn đến hậu quả là “làm phúc phải tội”, từ đó nảy sinh tình trạng “cháy nhà hàng xóm bình chân như vại”.
Từ bao đời nay, cuộc sống ở nông thôn vẫn được coi là thân thiết, nặng tình nặng nghĩa. Hàng xóm láng giềng tắt lửa tối đèn có nhau, vui buồn cùng chia sẻ. Tuy nhiên, cuộc sống an bình này cũng đang thay đổi. Do phong trào thành thị hoá nông thôn, tình làng nghĩa xóm đang dần trở nên khô khan, cách biệt. Cùng với những bức tường ngăn cách mỗi gia đình để bảo đảm an ninh và thiết lập một không gian riêng, những người láng giềng vốn gắn bó bỗng trở nên xa cách, theo kiểu “đèn nhà ai nấy rạng”. Lòng tốt trở nên càng ngày càng hiếm.
Trong bối cảnh xã hội còn tồn tại nhiều tiêu cực, niềm tin đã bị đánh cắp. Đã có nhiều cá nhân và tổ chức nhân danh “từ thiện” để trục lợi bất chính. Đây là những hành động vô luân trái với đạo đức, vì họ lợi dụng người nghèo hoặc nỗi đau của những bệnh nhân để kiếm tiền. Thời gian qua, nở rộ những công ty, những văn phòng huy động vốn với danh nghĩa “giúp người nghèo vượt khó”, nhưng thực chất là lừa đảo, làm cho người nông dân đã nghèo nay thêm khốn đốn vì nợ nần chồng chất chưa biết đến bao giờ mới có khả năng trả nợ. Đơn cử trường hợp Trung tâm hỗ trợ người nghèo ở huyện Thiệu Hoá, tỉnh Thanh Hoá (x. bài viết trên Báo điện tử Lao Động, ngày 21-6-2016). Nạn nhân là những người nông dân ít học, dễ tin và ôm ấp giấc mơ nhanh chóng đổi đời, nhưng niềm tin của họ đã bị trao nhầm chỗ.

Thứ Bảy, 11 tháng 6, 2016

Phút suy tư: Ánh mắt yêu thương

Ánh mắt yêu thương

“Thầy đã chọn con” (Ga 15, 16)

Thông thường, khi công bố trên truyền hình hoặc báo chí, hình ảnh những nghi phạm hay những nhân vật được nêu trong trường hợp tế nhị thường được che mờ hai con mắt. Lý do tại sao? Bởi vì đôi mắt là điểm quan trọng giúp ta nhận ra một con người. Do việc xóa mờ đôi mắt, người xem dù có nhìn thấy cả khuôn mặt, cũng khó nhận ra người đó chính xác là ai. Thiếu đi đôi mắt, những khuôn mặt hầu như đều giống nhau.
Con mắt là nét đặc trưng riêng để ta nhận ra một người. Con mắt cũng là cửa sổ của tâm hồn. Những gì được đón nhận bằng con mắt, sẽ giúp chúng ta học hỏi, trau dồi kiến thức và rèn luyện phong cách để trở nên con người tốt hơn. Một cửa sổ mở ra đón nhận những điều tốt và có những điều không tốt cũng lợi dụng để ùa theo. Vì thế, lý trí là chủ nhân của cửa sổ tâm hồn phải chọn lọc để tránh những điều xấu lọt vào đôi mắt, làm cho tâm hồn băng hoại và suy đồi.
Ánh mắt đơn giản mà hàm chứa bao ý nghĩa khác nhau như một thứ ngôn ngữ không lời. Trong tiếng Việt, ánh mắt được diễn tả bằng những từ ngữ phong phú, vừa tiêu cực vừa tích cực. Quả vậy, có những cái nhìn hận thù, hằn học, căm ghét, khinh bỉ, chế giễu, giận dữ, thách thức, nhưng cũng có những ánh mắt thân thiện, bằng hữu, thông cảm, khích lệ động viên, bao dung độ lượng, âu yếm, nhân từ. Ánh mắt luôn mang một thông điệp, diễn tả trạng thái tâm hồn con người, đồng thời biểu thị tâm tình của người đó với những người có liên hệ. Một cái nhìn “đểu” có thể dễ dàng cướp đi một mạng sống; một ánh mắt bao dung có thể cứu vớt một con người. Một cái nhìn hằn học có thể tiếp tục đào hố sâu ngăn cách; một ánh mắt thân thiện có thể chấm dứt mối thù hận truyền đời.

Chủ Nhật, 29 tháng 5, 2016

Về cuốn TTCB ấn bản III - NĐT

Về Cuốn Tư Tưởng Căn Bản (III) 

Giuse Nguyễn Đức Tuyên


Phong Trào Cursillo được sinh ra vào năm 1944, tại Palma de Mallorca, Tây Ban Nha, sau cuộc nội chiến (1936-1939) và thế chiến (1939-1945). Phong Trào đã hấp dẫn giáo dân một cách mãnh liệt cho nên sau 72 năm, Phong Trào đã hiện diện trên 50 quốc gia. Được thành lập bởi một nhóm các giáo dân được hướng dẫn bởi ông Eduardo Bonnín; đó là một phong trào mà mục đích hướng đến sự thay đổi thế giới, hướng con người đến với tự do và tình bạn thật sự. Phong trào Cursillo, đã được ban tặng vào một thời điểm và bối cảnh, vẫn còn là một công cụ tuyệt vời cho việc truyền giáo, và con người mới sẽ xây dựng một thế giới mới. Và con người mới chỉ tồn tại khi, thông qua sự tự do cá nhân của họ, họ khám phá ra sự tuỵêt diệu của tình yêu, để họ được yêu và yêu quí người khác bằng chính tình yêu họ nhận được. 
Tuy Phong Trào đã trưởng thành nhưng càng đi xa càng phát sinh nhiều ý kiến. Đã có những biểu hiệu làm cho Phong Trào xa lìa nguồn gốc. Điều này làm cho các nhà sáng lập thấy cần có một văn bản xác định những nguyên tắc căn bản về mục tiêu để tránh khỏi trệch hướng. Trong Đại Hội Thế giới kỳ III, tổ chức tại Mallorca năm 1972, đã hình thành một Ban Tu Thư dẫn đến ý tưởng và sự công bố vào năm 1974, phiên bản đầu tiên về "Những Tư Tưởng Căn Bản" mà ngày nay gọi là phiên bản (I). 

Thứ Ba, 24 tháng 5, 2016

PST: Hoa Lòng Dâng Mẹ

Hoa lòng dâng Mẹ

Truyền thống Giáo hội từ rất xa xưa đã dành hai tháng trong một năm để tôn vinh Đức Trinh nữ Maria: dâng hoa trong tháng Năm và lần hạt Mân Côi trong tháng Mười. Mặc dù những thực hành đã phai nhạt tại một số quốc gia, tâm tình yêu mến đối với Đức Mẹ không vì thế mà phôi phai. Đối với người Công giáo Việt Nam, tháng Năm và tháng Mười vẫn là những thời điểm yêu thích để tỏ lòng tôn kính và mến yêu đối với Thánh Mẫu của Thiên Chúa. Dù mỗi nơi mỗi cách thực hành, dù tân cổ kết hợp đan xen, những điệu múa lời kinh đều diễn tả tâm tình yêu mến của người tín hữu đối với Đức Mẹ.

Trong cuộc sống hằng ngày, người ta thường tặng hoa cho nhau để tỏ lòng yêu mến, hiếu thảo và bằng hữu. Hoa vật chất là biểu tượng cho tấm lòng. Thời gian gần đây, với sự phát triển của cuộc sống, cùng với phong trào hội nhập văn hoá Âu Mỹ, người Việt Nam chúng ta đã sử dụng rất nhiều hoa trong những dịp kỷ niệm. Những bông hoa thay cho lời muốn nói đã góp phần làm cho cuộc sống này thi vị và văn minh hơn.

Thứ Ba, 3 tháng 5, 2016

Phút suy tư: Đừng xao quyến

Đừng xao xuyến

Khi đọc Tin Mừng, tôi thấy Chúa Giêsu hiện diện giữa các môn đệ, vừa như một người Thầy, vừa như một người Cha. Như một người Thầy, Chúa huấn luyện các ông và cho các ông được chia sẻ sứ vụ rao giảng của Người. Như một người Cha, Chúa quan tâm chăm sóc và luôn động viên nâng đỡ khi các ông gặp lo âu. “Đừng xao xuyến!”, “Đừng sợ!”, đó là những lời Chúa dùng để trấn an các ông trong lúc sợ hãi ưu phiền. Là người tín hữu, những lời này giúp tôi tìm được bình an và nghị lực để vững vàng vươn lên trong cuộc sống.
Giữa những lo âu xáo trộn của cuộc đời, nhiều khi tôi thấy dường như Thiên Chúa vắng bóng. Những vấn nạn về sự dữ, bất công và đau khổ luôn bủa vây xung quanh tôi. Chúa ở đâu khi biết bao sự dữ xảy đến với dân lành và người vô tội. Làm sao lý giải được một Thiên Chúa đầy lòng trắc ẩn và hay thương xót, khi mà đau khổ, nước mắt luôn đi liền với kiếp sống con người? Chính trong những giây phút này, Chúa nói với tôi: “Lòng các con đừng xao xuyến!”. Chúa soi sáng cho tôi hiểu biết ý nghĩa và giá trị của khổ đau, để tôi biết đón nhận và thánh hoá chúng. Chúa Giêsu cũng tỏ cho tôi biết, Người đang hiện diện nơi những anh chị em đang đau khổ và cơ bần, để rồi ai giúp đỡ họ là giúp đỡ Chúa. Người muốn dùng tôi như cánh tay nối dài của Người để lau khô giọt lệ nơi khoé mắt người cô thế cô thân. Người cũng khẳng định với tôi, trong hành trình cuộc đời, những người đau khổ không bước đi trong cô đơn vô vọng, vì có Chúa đang vác thập giá với họ và thêm sức cho họ. Câu chuyện “dấu chân trên cát” nhắc nhớ tôi sự hiện diện kỳ diệu đầy yêu thương của Chúa. Chúa yêu tôi và Chúa bồng bế tôi trên cánh tay của Người, để không còn sự dữ nào làm tôi ngã gục.
Đối diện với sự chết, là một bi kịch của kiếp người, có những khi tôi băn khoăn về đích điểm của cuộc đời và về hạnh phúc tương lai. Chúa khẳng định với tôi: “Lòng các con đừng xao xuyến… Thầy đi để dọn chỗ cho các con” (Ga 14,1-2). Chúa Giêsu như một người tiền trạm, đi bước trước để chuẩn bị nơi ở chu đáo cho những người thân. Qua những lời này, Người tỏ cho các môn đệ thấy, họ không bị bỏ rơi. Họ sẽ được ở với Chúa và được đồng hưởng vinh quang với Người, vì đã dấn thân tiếp bước theo Người. Chúa cũng đã hứa với các ông: “Ai phục vụ Thầy, thì hãy theo Thầy; và Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó. Ai phục vụ Thầy, Cha Thầy sẽ quý trọng người đó” (Ga 12,26). Chúa Giêsu là Thiên Chúa Ngôi Hai nhập thể làm người. Người từ trời mà xuống và giờ đây Người lại về trời. Đức Giêsu như một chiếc thang nối trời với đất để nhờ chiếc thang đó, tôi đang bước từng tiến về trời cao. Lời trấn an của Chúa “lòng các con đừng xao xuyến” cũng nhắc nhở tôi rằng trên trời, tôi có Đức Maria, các thánh và những người thân của tôi đã sống thánh thiện và đã an nghỉ trong Chúa. Họ đang chờ đợi tôi và luôn cầu bầu cho tôi. Đối với người tin Chúa, Quê Trời mới là quê thật, cuộc sống trần thế chỉ là cuộc lữ hành. Cuộc lữ hành nào cũng có lúc khởi đầu và hồi kết thúc. Mọi lữ khách đều phải trải qua những thử thách gian nan. Sự gian khó mệt nhọc của cuộc lữ hành cũng là thước đo của lòng trung thành và kiên gan bền chí.

Thứ Hai, 18 tháng 4, 2016

Suy tư và Cảm nhận về THĐGM về Gia đình 2015 - Đức Cha Phó Giuse

THƯỢNG HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC THẾ GIỚI VỀ GIA ĐÌNH
4 – 25/10/2015
Video phỏng vấn Đức Cha Giuse tại Thượng HĐGM về Gia đình 2015
Cảm nhận và suy tư
+ Giuse Đinh Đức Đạo
Giám mục Phó Gp Xuân Lộc

Từ ngày 4 – 25 tháng 10 năm 2015, cùng với Đức Tổng Phaolô Bùi Văn Đọc, Chủ tịch Hội đồng Giám mục Việt Nam, tôi đã tham dự Thượng Hội đồng Giám mục thế giới tại Roma, với chủ đề “Gia đình – Ơn gọi và sứ mạng trong Giáo hội và Thế giới”. Dưới đây là một số cảm nhận và suy tư, sẽ được trình bày qua 4 đề mục sau đây:
-       Thành phần, phương thức làm việc của THĐGM
-       Những dấu nhấn trong THĐGM
-       Những vấn đề đặt ra
-       Những bài học

I.        Thành phần, phương thức làm việc
1. Thành phần
Các thành phần tham dự THĐGM gồm:
+       270 nghị phụ: những thành viên chính thức của THĐGM. Các vị này có quyền phát biểu và biểu quyết.
+       108 người: gồm các phái đoàn Giáo hội anh em, các dự thính viên và các chuyên viên. Các Phái đoàn Giáo hội Anh Em và các dự thính viên có thể phát biểu, nhưng không có quyền biểu quyết.
+       35 chủng sinh và tu sĩ: những người phục vụ cho THĐGM.
Tổng cộng có 413 người, không kể các chuyên viên kỹ thuật, các thông dịch viên và nhân viên an ninh.

Chủ Nhật, 27 tháng 3, 2016

PTS: Hồi sinh

HỒI SINH
 
Truyền thống văn hoá tại một số quốc gia châu Âu và châu Mỹ thường chọn con bướm là biểu tượng cho sự hồi sinh. Có những trung tâm thương mại được trang trí một đàn bướm hàng ngàn con bằng pha lê, rực rỡ muôn màu sắc, tạo ấn tượng tốt đẹp, tươi mát và lạc quan cho du khách. Con bướm cũng là biểu tượng của hy vọng và may mắn thành đạt. Chúng ta đều biết “tiền kiếp” của con bướm là con sâu. Con sâu thì xù xì xấu xí, con bướm thì đẹp đẽ lung linh. Con sâu chỉ cắn lá phá hoại, con bướm thì tô điểm cho hoa lá thêm xinh. Con sâu trông gớm ghiếc ghê sợ, con bướm nhìn duyên dáng đáng yêu. Từ con sâu thành con bướm, đó là quá trình của một cuộc hồi sinh.
Cuộc hồi sinh nào cũng phải trải qua những gian nan. Chúng ta không cảm nhận được sự lột xác để biến từ một con sâu thành chú bướm, nhưng chắc chắn một điều, con bướm phải chấp nhận những đau đớn thể xác, giống như người mẹ vật vã khi sinh con. Chẳng có cuộc hồi sinh nào mà không đòi hỏi phải gian khổ, cũng như chẳng có thành công nào mà thiếu vắng tập luyện kiên trì.
Sau những ngày ảm đạm bi thương của Tuần Thánh, người tín hữu vui mừng cử hành cuộc phục sinh của Đức Giêsu. Qua mầu nhiệm khổ nạn thập giá, Đức Giêsu như hạt lúa mì được gieo vào lòng đất. Hạt lúa ấy đã chấp nhận mục nát đi để mọc lên thành cây mới sinh hoa kết trái. Hạt lúa Giêsu đã tự huỷ mình, chấp nhận thương đau và sau đó đã phục sinh vinh quang sáng láng. Khi từ cõi chết sống lại, Chúa Giêsu phục sinh đã mở cho nhân loại cánh cửa hy vọng, để rồi từ nay, cuộc sống con người có một định hướng trong tương lai, đó là được phục sinh với Chúa. Sự phục sinh của Chúa là câu trả lời cho vấn nạn ngàn đời về phẩm giá con người và ý nghĩa cuộc sống: con người được dựng nên để sống hạnh phúc với Chúa trong cõi sống đời đời. Nhờ Đấng Phục sinh, người tín hữu còn nhận ra trong con người của mình có sức sống thần thiêng của Con Thiên Chúa, giúp họ biến đổi mỗi ngày, đến mức cuộc sống, hành động và ngôn từ của họ đều phản ánh sự hiện diện đầy yêu thương của Đấng họ tôn thờ.
Việc Đức Giêsu ra khỏi mộ sau khi đã chết ba ngày làm cho những người đương thời ngỡ ngàng khó tin, kể cả các môn đệ của Chúa, mặc dù Chúa đã tiên báo về cái chết và sự phục sinh của Người. Sự ngỡ ngàng này là điều dễ hiểu, bởi theo lẽ thông thường, người đã chết chẳng thể sống lại. Những chứng nhân mắt thấy tai nghe đã quả quyết được gặp Chúa phục sinh, và họ dám lấy mạng sống mình để làm chứng cho điều đó. Sự phục sinh của Chúa Giêsu vượt trí loài người. Người sống lại bởi quyền năng của Thiên Chúa. Người đã tuyên bố, Người có quyền trao ban và có quyền lấy lại sự sống. Nấm mộ không thể giam hãm Người trong cõi thâm u. Quyền lực của sự chết đã bị đánh bại trước sự phục sinh của Đức Giêsu.
Khi ra khỏi mộ tối, Chúa Giêsu đã giải phóng nhân loại khỏi quyền lực của sự chết. Nếu sự chết đã thất bại trước quyền năng của Con Thiên Chúa, thì những ai tin vào Người cũng sẽ chiến thắng sự chết như vậy. Bởi lẽ quyền năng của Thiên Chúa bao bọc và chở che những ai trung tín với Người.
Sau những ngày sống tinh thần Mùa Chay, người tín hữu được hồi sinh nhờ ân sủng của Đức Kitô. Khi long trọng mừng lễ Phục sinh, chúng ta trở nên con người mới, như con sâu xù xì thoát kiếp để biến thành con bướm huy hoàng. Thân phận con sâu là quá khứ, thân phận com bướm là hiện tại. Nhờ sám hối chay tịnh của Mùa Chay, người tín hữu đoạn tuyệt với quá khứ, như người con hoang đàng trở về với cha mình để làm lại cuộc đời. Giờ đây, họ được mặc lấy Chúa Kitô phục sinh, trở nên huy hoàng và vinh quang như Người. Sự phục sinh của Chúa Giêsu tác động con người và cuộc sống của chúng ta, làm cho chúng ta lạc quan tin tưởng vào Chúa và nhân ái bao dung với anh chị em.

Thứ Ba, 22 tháng 3, 2016

Phút suy tư: VỤ ÁN GIÊ SU

Vụ án Giêsu
Trình thuật cuộc thương khó của Chúa Giêsu được thực hiện như một phóng sự tóm tắt, dẫn đưa khán thính giả từ phòng Tiệc ly đến chân đồi Canvê. Cuộc khổ nạn của Đức Giêsu là một vụ án dân sự vô tiền khoáng hậu và bất bình thường: thời gian xét xử quá nhanh, diễn ra từ chiều thứ Năm đến chiều thứ Sáu, không có luật sư bào chữa, bị cáo không được thanh minh, mặc dù quan niệm và luật lệ thời bấy giờ cũng cho phép bị cáo tự bào chữa trước khi có tuyên án của toà (x. Ga 7,51). Chứng nhân trong vụ án là một đám đông hừng hực căm thù và a dua ùa theo dư luận quần chúng. Những lời tố cáo là những lời vu khống, xuất phát từ sự căm hờn. Công nghị Do Thái làm việc từ tảng sáng (x. Lc 22,66), dường như để xét xử chiếu lệ cho xong một cách vô trách nhiệm. Chúa Giêsu ở đó, một mình trước đám đông. Những người thân thiết đã lánh mặt, hoặc có hiện diện thì cũng từ xa âm thầm theo dõi.
Cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu cũng được trình bày như một vở kịch. Vở kịch này có nhiều nhân vật. Có những người đại diện cho luật pháp dân sự như Hêrôđê và Philatô. Có những người lãnh đạo tôn giáo như vị Thượng tế và các kỳ mục. Có những người đại diện cho truyền thống Do Thái như các kinh sư và biệt phái. Bên cạnh họ là một đám đông mà lập trường của họ bất nhất, dễ đổi thay. Họ bị kích động trước nhóm người đang tìm cách tố cáo vu oan vị ngôn sứ thành Nagiarét. Họ cố tình xuyên tạc những lời giảng dạy của Chúa Giêsu, để cắt nghĩa từ một giáo huấn thiêng liêng có ý nghĩa tượng trưng thành những âm mưu chính trị và hành động phá hoại.

Chủ Nhật, 28 tháng 2, 2016

Phút suy tư: Hối hận

HỐI HẬN
Hối hận là tâm trạng của một người, sau khi đã làm điều không tốt, cảm thấy day dứt lương tâm về điều sai trái mình đã làm. Một người hối hận thường mong muốn sửa lại lỗi lầm của mình, hoặc muốn bù đắp những thiệt hại về danh dự cũng như vật chất mình đã gây ra cho người khác. Hối hận là sự thức tỉnh lương tâm và là khởi đầu của hành trình trở về, để sám hối và canh tân đổi đời.
Dân gian ta có câu: “Đánh người chạy đi, ai nỡ đánh người chạy lại”. Điều này cho thấy cuộc đời rất bao dung đối với những ai lầm lỗi. Một khi họ đã nhận ra sai lầm của mình và quyết tâm đoạn tuyệt với quá khứ, trở về hoàn lương, thì không ai nỡ chối từ. Họ là những người can đảm “chạy lại” để hòa nhập với cộng đồng xã hội. Tuy nhiên, để được đón nhận và tha thứ, người lầm lỗi phải chứng minh thiện chí của mình. Họ cũng phải can đảm vượt lên những thành kiến mặc cảm, quyết tâm sửa đổi hạnh kiểm. Cuộc đời sẽ dang rộng vòng tay đón nhận và quên đi quá khứ của những ai đã trót lầm lỗi mà hối hận ăn năn.
Có những khi niềm hối hận lại trở nên quá muộn màng, không còn cơ hội để sửa chữa lầm lỗi. Đó là trường hợp những người phạm pháp và phải ra trước vành móng ngựa. Đó cũng là những đứa con bất hiếu mà khi tỉnh ngộ thì cha mẹ đã qua đời, hoặc những anh em trong gia đình, vì mâu thuẫn xung đột, quyết đoạn tuyệt tình thân mà nay sự chết không cho họ gặp lại để hòa giải. Còn biết bao trường hợp khác nữa, khi mà sự ích kỷ, ghen ghét làm cho người thân trở thành kẻ thù, người thiết nghĩa coi nhau như người dưng. Một lúc nào đó, khi thức tỉnh lương tâm, họ muốn người nằm xuống sống lại chỉ một giây để họ nói lời xin lỗi và tỏ bày niềm hối hận, nhưng đã quá muộn màng.

Phút suy tư: Tôi đi tìm tôi

Tôi đi tìm tôi
Sống ở đời là một cuộc kiếm tìm không ngơi nghỉ. Có biết bao điều ta phải tìm kiếm hằng ngày, trong lãnh vực vật chất cũng như tinh thần. Dù kiếm tìm liên lỉ như vậy, con người chẳng bao giờ thỏa mãn về những gì mình đã đạt được. Vì thế, cuộc sống là một chuỗi những khám phá vô biên. Tuy vậy, nhiều khi tôi say sưa đi tìm kiếm nhiều thứ trên đời mà đánh mất chính mình. Cho nên, trong cuộc tìm kiếm này, tôi không được quên một điều quan trọng, đó là tôi đi tìm chính bản thân tôi.
Tại sao tôi lại phải đi tìm tôi, vì tìm kiếm điều gì có nghĩa là mình chưa đạt được điều ấy, trong khi tôi đang hiện diện trong chính cuộc sống này? Câu trả lời thật đơn giản: Tôi luôn phải đi tìm tôi, vì tôi thường đánh mất mình giữa cuộc đời bon chen tính toán này. Giữa dòng đời trôi nổi ngược xuôi, tôi như đám bèo trôi dạt, bồng bềnh theo con sóng của thời cuộc, phó mặc cho may rủi của cuộc đời. Tôi không còn là tôi nữa, tôi đánh mất chính mình, khi vì lợi lộc và danh vọng mà sống giả dối mưu mô ích kỷ.
Trước hết, tôi đi tìm tôi để biết tôi là ai trong mối tương quan với Chúa. Giữa cuộc đời này, tôi chỉ nhỏ bé như một hạt cát trong sa mạc, như giọt nước giữa đại dương. Ấy vậy mà Chúa biết rõ tôi, kể cả khi tôi đứng, khi tôi ngồi. Chúa biết rõ từ khi tôi được hoài thai trong lòng mẹ. Từ muôn thuở, Chúa đã biết tôi và Ngài gọi tôi bằng chính tên của tôi. Nếu Chúa biết tôi như thế, là vì Ngài là Đấng quyền năng và Ngài yêu thương tôi bằng tình yêu vô bờ bến. Khi người ta yêu mến nhau thì người ta biết rõ về nhau, hiểu tâm tính và sở thích của nhau và muốn làm mọi sự để người mình yêu được hài lòng và hạnh phúc. Thật ngọt ngào và hãnh diện khi biết rằng, dù nhỏ bé, tôi vẫn là đối tượng của tình yêu thương Thiên Chúa. Chúa thương tôi vì tôi là tạo vật bé bỏng của Ngài. Tình yêu đáp lại tình yêu. Ý thức tình yêu thương bao la của Chúa như vậy, tôi sẽ cố gắng hoàn thiện bản thân như Chúa muốn. Tôi cũng cố gắng làm mọi sự để đền đáp tình yêu thương mà Ngài đã dành cho tôi. Tất cả mọi lệnh truyền của Chúa đều xuất phát từ tình yêu thương. Chúa yêu thương tôi và muốn san sẻ cho tôi vinh quang và hạnh phúc của Ngài. Khi tôi thành tâm thực hiện những điều Chúa dạy, tôi sẽ đạt được niềm vui và hạnh phúc Chúa dành cho những ai yêu mến Ngài.
Tôi đi tìm tôi để biết tôi là ai trong gia đình nhân loại. Tôi được sinh ra để chung sống với mọi người trong xã hội này. Dù mỏng manh yếu ớt, tôi vẫn có thể lớn lên nhờ sự đùm bọc của cha mẹ và những người thân. Dù nhỏ bé mọn hèn, tôi vẫn có thể thành đạt nhờ sự giúp đỡ của mọi người tôi gặp trong cuộc sống. Thiên Chúa là Cha của gia đình nhân loại. Gia đình này bao gồm mọi nền văn hoá, mọi sắc tộc, mọi ngôn ngữ, mọi ý thức hệ chính trị. Là Cha chung, Thiên Chúa yêu thương hết mọi người, kể cả những tội nhân. Ngài là Thiên Chúa của tình yêu chứ không phải một vị thần nghiêm khắc chỉ rình rập để trừng phạt. Ngài vui mừng vì thấy con người sám hối ăn năn để được sống. Hiện diện trên đời này, tôi không phải là ốc đảo cô đơn, nhưng là một phần của xã hội, giống như chi thể của một thân thể. Thân thể ấy vừa là xã hội nơi tôi sinh sống, vừa là cộng đoàn Đức tin nơi tôi được gọi làm chứng cho tình yêu của Thiên Chúa. Ý thức mình là một chi thể, tôi không thể bo bo ích kỷ cho lo cho bản thân mà quên những người xung quanh. Những cố gắng cộng tác để bảo vệ môi trường, tham gia những hoạt động công ích, cổ võ sống lành mạnh với một lương tâm ngay chính… đó là những hành động thiết thực giúp tôi hoà đồng với cuộc sống xã hội. Khi đi tìm để biết tôi là ai trong xã hội mênh mông này, tôi sẽ nhận ra những người đang sống xung quanh tôi đều là anh chị em với nhau. Cũng như tôi, họ đều đang có những niềm vui cần được chia sẻ, những nỗi buồn cần được cảm thông, những yếu đuối cần được nâng đỡ. Cùng với tôi, hết thảy họ đều đang đi trên con đường tiến tới trọn lành. Những nghĩa cử đẹp, dù nhỏ bé đơn sơ, cũng giúp nối kết tôi với họ trong tình huynh đệ chân thành để cùng dựng xây một cuộc sống tốt đẹp và nhân ái hơn.