Luận về
Lãnh đạo là một nghệ thuật. Ví phỏng mọi người bình thường đều có tiềm năng lãnh đạo ngang nhau, nhưng nếu tiềm năng không được trao đổi và phát triển thì khó có thể trở thành người lãnh đạo. Những người có khả năng lãnh đạo thực sự là những người tạo dựng được hoàn cảnh và thời thế; là những người tổ chức được đoàn thể, quy tụ được nhiều thành phần hưởng ứng chủ trương đường lối phục vụ nhân sinh và thực hiện được chương trình kế hoạch đã định.
NGHỆ THUẬT LÃNH ĐẠO
Lãnh đạo là một nghệ thuật. Ví phỏng mọi người bình thường đều có tiềm năng lãnh đạo ngang nhau, nhưng nếu tiềm năng không được trao đổi và phát triển thì khó có thể trở thành người lãnh đạo. Những người có khả năng lãnh đạo thực sự là những người tạo dựng được hoàn cảnh và thời thế; là những người tổ chức được đoàn thể, quy tụ được nhiều thành phần hưởng ứng chủ trương đường lối phục vụ nhân sinh và thực hiện được chương trình kế hoạch đã định.
Lãnh đạo khác với chỉ
huy, mặc dù kinh nghiệm chỉ huy giúp ích rất nhiều cho vấn đề lãnh đạo. Các
trưởng cơ quan hay đơn vị thường được gọi là chỉ huy trưởng, trưởng cơ sở… đảm
nhiệm vai trò điều hành một đơn vị để phối trí và thực hiện một số công tác
chuyên môn do luật định, nghĩa là những người chỉ huy phải chu toàn nhiệm vụ
trong khuôn khổ quyền hạn và trách nhiệm đã được quy định…
Nhiều người lấy làm
thắc mắc vì sao trong 40 năm tị nạn, một số người có chức cao quyền trọng trong
xã hội Việt Nam Cộng Hòa, ít thấy xuất hiện để cứu dân độ thế.
Lý do là trong các
sinh hoạt quốc gia, các nhân viên phục vụ trong các ngành dân, quân, cán, chính
thường sống lâu ra lão làng, được bổ nhiệm vào các chức vụ chỉ huy nếu hội đủ
một số tiêu chuẩn do quy lệ ấn định. Các cấp chỉ huy, trưởng cơ quan có nhiệm
vụ và khả năng chuyên môn hạn chế tùy từng ngành riêng biệt.
Trong kinh nghiệm chỉ
huy đó, có người chỉ có khả năng sinh hoạt trong ngành chuyên môn của mình, có
người có khả năng sinh hoạt trong nhỉều lãnh vực khác nhau.
Những người có khả
năng sinh hoạt trong nhiều lãnh vực khác nhau, tự học hỏi và thăng tiến có
triển vọng trở thành những người lãnh đạo. Lãnh đạo đòi hỏi sự biến ứng, đa
năng và đa hiệu, thích ứng với hoàn cảnh vô thường của cuộc sống.
Người lãnh đạo khác
với người thường là quyết định của họ sẽ ảnh hưởng đến sự hình thành quyết định
của người khác. Ý kiến của họ giúp được nhiều người khác thăng tiến sự hiểu
biết. Thái độ xử thế của họ có thể tạo nên thái độ mẫu mực cho người khác noi
theo.
Người lãnh đạo là
người có “NHÂN”, thể hiện qua tinh thần hợp tác với các cộng sự viên và
người đồng hành để thực hiện lý tưởng. Người lãnh đạo là người có “TRÍ” với
nhiều sáng kiến, có đủ khă năng để quyết định những công tác hữu ích cho đoàn
thể, cho cộng đồng, cho nhân quần xã hội. Là người có “DŨNG” để can
đảm thực hiện sáng kiến hữu ích; không lùi bước trước gian nguy thử thách.
Người lãnh đạo là
người có khả năng chấp nhận rủi ro và nguy hiểm. Khi làm việc phải, có thể bị
chống đối một cách phi lý. Người lãnh đạo phải biết quan sát và nhận xét, phân
biệt phải trái để hành động. Người lãnh đạo phải biết tu thân và phục vụ công
lý trong tinh thần cần, kiệm, liêm, chính. “Phú quý bất năng dâm, bần tiện
bất năng di, uy vũ bất năng khuất”. Người lãnh đạo biết tiến, thối, chuẩn
bị chu đáo, tạo hoàn cảnh thuận lợi: thiên thời, địa lợi, nhân hòa.
Người lãnh đạo là
người có tinh thần trách nhiệm, thực hiện sứ mệnh một cách can trường, không
lùi bước trước thử thách, dèm pha, đàm tiếu miễn là không làm điều trái với
lương tâm.
Người lãnh đạo là
người bảo vệ sự chính đáng và chính danh trong hành động. Thành thực với chính
mình, biết bồi ưu và biết bổ khuyết; biết thực hiện những việc thích hợp với
khả năng của mình; biết sống và hành động theo lý tưởng phục vụ nhân quần xã
hội. “Vì danh bất chính thì ngôn bất thuận và ngôn bất thuận thì sự chẳng
thành.”
Người lãnh đạo là
người độ lượng, có lòng bác ái, từ bi, hỉ xả nói lên lòng nhân đạo, tình yêu
nhân hậu đối với nhân quần xã hội. Đức Khổng Tử thường nói: "Vi thiện
giả, Thiên báo chi dĩ phúc. Vi bất thiện giả, Thiên báo chi dĩ họa” làm
điều lành thì Trời lấy phúc mà báo cho. Ngược lại, người làm điều chẳng lành
thì Trời lấy vạ mà báo cho. Nói khác đi “Thiện ác đáo đầu chung hữu báo”.
Do đó, người lãnh đạo tốt luôn luôn nghĩ đến điều thiện “Nhất nhật bất niệm
thiện, chư ác giai tự khởi.” Một ngày mà không nghĩ đến điều thiện, thì mọi
điều ác tự dấy lên.
Những người có tiềm
năng lãnh đạo, mà có lòng nhân thì tâm thường an lạc. Nhờ sự bình an trong tâm
hồn mà trí tuệ được sáng suốt, minh mẫn, có thể được thư thái. “Hồn lành trong
xác mạnh”. Nhờ sự thư thái về thể xác, minh mẫn về tinh thần, người lãnh đạo
phát kiến được nhiều chương trình, kế hoạch hữu ích cho nhân quần xã hội, thoát
hiểm cho cộng đồng, cho quốc gia dân tộc.
Những đức tính tự
nhiên của người lãnh đạo có thể do bản chất “Thông minh vốn sẵn tính Trời”, tô
bồi bởi sự cố gắng học hỏi, tu luyện: “Văn ôn, võ luyện”. Không có hoa hồng nào
mà không có gai. Không có kết quả nào mà không do sự khổ công tu luyện.
Muốn trở thành một
người lãnh đạo cần phải can đảm dám từ bỏ tự cao, tự đại, tự mãn, cần phải áp
dụng đức bác đi, từ bi, hỉ xả trong đời sống hàng ngày, để từ bỏ tính ích kỷ cá
nhân. Muốn được vậy, phải luôn luôn học hỏi qua kinh điển, sách vở, báo chí, dụ
ngôn, để hiểu biết lẽ sống của con người, giá trị của cuộc đời rồi mới hiểu
được chân, thiện, mỹ mà tự cải tiến tâm hồn.
Một yếu tố đáng lưu ý
của những nhà lãnh đạo Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ là những người đã từng đọc thật
nhanh và đọc rất nhiều sách. Theo thống kê, có người đọc 700 chữ một phút và
đọc ít nhất 30 cuốn sách một tháng? Nếu thế thì chẳng bao lâu có thể thu tóm
“Bốn bồ chữ của thiên hạ về một mối”. Cao Bá Quát có sống lại cũng không địch
nổi, dù ông có tự khoe trong thiên hạ có bốn bồ chữ, ông và gia đình chiếm hết
ba bồ, còn lại một bồ cho thiên hạ…!
Lý do rất dễ hiểu là
kiến thức thu thập ở ghế nhà trường, các quân trường, các lớp huấn luyện có
tính cách hạn hẹp và chuyên môn, vài năm sau sẽ bị lỗi thời (obsolete), nếu
không được cập nhật hoá. Do đó, vấn đề tu nghiệp rất quan trọng trong mọi ngành
sinh hoạt hiện nay tại Hoa Kỳ và các quốc gia tân tiến. Nếu không có tu nghiệp
tức là không có tiến bộ, không thu nhận được kiến thức mới tức là thoái
hoá…
Một số người đóng vai
trò lãnh đạo ở Việt Nam qua Mỹ mai danh ẩn tích vì nhiều lý do. Có thể vì không
cập nhật hoá được kiến thức của mình. Có thể vì đã mệt mỏi muốn quên đi sự đời;
tìm nơi vắng vẻ...
“Ta
dại ta tìm nơi vắng vẻ
Người
khôn người đến chốn lao xao”
Hoặc
vì thích sống với hào quang của quá khứ, phủ nhận hiện tại, công đâu chuốc lấy
sự đời! Vì lý do nhân đạo, chúng ta nên tôn trọng ý thích của họ vì “Nhân sinh quý
thích chí”. Không ai có quyền chê trách, bắt buộc người khác làm những việc mà
họ không muốn làm. Vì như vậy chẳng những phi lý mà còn vi hiến “Involuntary
Service”!
Những
người có thiện chí lãnh đạo cần phải trao đổi và cập nhật hoá kiến thức,
hiểu biết rộng rãi về mọi ngành sinh hoạt của quốc gia. Không phải để trở thành
chuyên viên, hiểu biết về một ngành sinh hoạt, mà phải có kiến thức tổng quát
để quản trị, để vạch chính sách chung cho mọi ngành sinh hoạt. Câu nóỉ: “Một ngày không đọc sách, soi gương tự thẹn,
hai ngày không đọc sách, nói chuyện nhạt nhẽo khó nghe” thật là chí lý.
Ngoài
những đức tính tự nhiên đã nêu trên, người lãnh đạo là người có đời sống tinh
thần phong phú.
Người lãnh đạo là người sống với đức tin:
Lòng tin chở được núi. Với đức tin mọi việc hữu ích sẽ được hoàn thành một cách
thoải mái. Sống trong đức tin là sống trong sự cải hóa tâm hồn. Sống đức tin là
sống theo gương đấng chí tôn.
Người lãnh đạo sống với hy vọng:
Hy vọng giúp con người biến mộng thành thực. Hy vọng là nguyên động lực thúc
đẩy con người làm việc, đánh tan được sự thất vọng rình rập cuộc sống. Hy vọng
không phải là mơ mộng, mà là mãnh lực thúc đẩy con người thực hiện được điều
mong ước, mộng tưởng của mình. Mặc dầu “Ở
đời lắm nỗi không bằng mộng. Mộng lớn bao nhiêu khổ bấy nhiêu”. Tìm kiến
hạnh phúc trong thương đau.
Người lãnh đạo sống với tình yêu nhân loại:
Tình yêu là hy sinh và phục vụ. Vì tình yêu mới có thể làm vỉệc một cách vui vẻ,
không bao giờ chán nản. “Khi yêu tam tứ
núi cũng trèo, thất bát sông cũng lội, thập ngũ đèo cũng qua”. Yêu là hy
sinh, quên mình để phục vụ cho người khác. Tình yêu sẽ mang lại sinh lực, nhuệ
khí, tăng cường các đức tính tốt của con người, vì yêu là muốn đem lại sự tốt
đẹp cho tha nhân. Có những người bôn ba hải ngoại, chân chạy không bén đất, vì
nhiệt tình phục vụ nhân quần xã hội. Bất cứ công việc gì thực hiện cho tha nhân
mà không dựa trên tình yêu thì việc đó không có sự hữu ích và thiếu giá trị tinh
thần. Cách cho hơn của cho là vậy! Vua Trần Nhân Tông thấy dân đói khổ đã nói
với quần thần: “Trẫm thương dân như thương con trẫm” chứng tỏ lòng nhân của một
vị anh quân. Nhiều nhà cách mạng đã hy sinh cho cuộc đời để phục vụ cho lý
tưởng quốc gia dân tộc.
Người lãnh đạo là người biết khiêm nhường.
Khiêm nhường là biết mình, là nhân nhượng, không so sánh mình với kẻ khác để tự
ty mặc cảm hay để tự cao, tự đại, tự mãn. Khiêm nhường là phục thiện, biết nghe
điều phải, biết học điều hay, biết làm điều tốt.”Bất sỉ hạ vấn”. Khiêm nhường
không có nghĩa tự xem mình thấp kém hơn kẻ khác, hay tự ty mặc cảm. Tự ty mặc
cảm không phải là khiêm nhường mà là mất tự trọng, tự tín (loss of self
esteem).
Khiêm
nhường là đức tính phát xuất từ sự hiểu biết về sự hữu hạn của đời người, của
trí tuệ, của khả năng cá nhân. Sự khiêm nhường phát xuất từ sự nhận định được
rằng, tha nhân, dù xuất hiện như thế nào chăng nữa, vẫn là những cá nhân đặc
thù, có những khuyết điểm nên tránh và những ưu điểm nên theo.
Sự
khiêm nhường sẽ cho ta thời gian và sự bình tĩnh để can đảm nhận được giá trị
của người khác, mà những người tự cao, tự đại, tự mãn, kiêu căng, không đủ bình
tĩnh và lý trí để ghi nhận ưu điểm của người khác để tự cải tiến bản thân mình.
Tính khiêm nhường nuôi dưỡng các đức tính khác và mở đường cho con người tự
thăng tiến và được tôn trọng.
Thế
thì các đức tính của người lãnh đạo chung quy vẫn nằm trong ngũ thường: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín.
* Nhân:
Người lãnh đạo là người có lòng nhân, nhận lãnh trách nhiệm để phục vụ nhân quần
xã hội.
* Nghĩa:
người lãnh đạo là người có lý tưởng phục vụ cộng đồng, xã hội, quốc gia, việc
phải dù nhỏ cũng phải làm và việc quấy dù có chết cũng không làm.
* Lễ:
Người lãnh đạo biết kính trọng tha nhân, những người mà mình xem là đối tượng
để phục vụ.
* Trí:
Người lãnh đạo là người sáng suốt, khôn ngoan, nhờ kiến thức tống quát rộng rãi
do công lao cá nhân chịu khó học hỏi để có đủ khả năng quyết định sáng suốt.
“Bất sỉ hạ vấn”, học hỏi người dưới quyền không lấy làm thẹn.
* Tín:
Người lãnh đạo là người tạo được lòng tin của tha nhân bằng lời nói và hành
động. "Nhân bất tín vô lập”, người không có chữ tín, không thể đứng vững
được. “Tín vi nhân chi bảo”, được sự tin tưởng là bảo vật của nhân thế.
Người
lãnh đạo là người “Tiên thiên hạ chi ưu
nhi ưu, hậu thiên hạ chi lạc nhi lạc”. Khổ trước cái khổ của thiên hạ và
vui sau cái vui của mọi người.
Người
lãnh đạo thay vì thoái thác, trùm chăn, lẩn trốn thế nhân, thường xuất hiện như
một tấm gương sáng, cải hóa thế nhân bằng một đồi sống chí tình, chí nghĩa, “Lấy nhân nghĩa thắng hung tàn, đem chí nhân
thay cho cường bạo”.
Người
lãnh đạo là người biết quên mình để phục vụ lẽ phải, mọi hành động đều hướng
đến Chân, Thiện, Mỹ. Người lãnh đạo là người nhập thế, biết sử dụng tài năng
của mình để nhận lãnh trách nhiệm và để phục vụ tha nhân.
Luận đến đây, mỗi
người chúng ta tự xét mình có phải là người lãnh đạo hay không? Tùy hoàn cảnh
và phạm vi sinh hoạt, mỗi người có thể trở thành người lãnh đạo đoàn thể, cộng
đồng, xã hội, quốc gia. Người lãnh đạo phải am hiểu kiến thức của thế trần,
trang bị cho mình tinh thần lương thiện, vương đạo và lý tưởng phục vụ tha
nhân.
Giữa vấn đề sinh hoạt
đơn thương độc mã và sinh hoạt tập thể, thì sinh hoạt tập thể là một môi trường
đào tạo các nhân vật lãnh đạo. Có sinh hoạt tập thể thì mới biết được ưu và
khuyết điểm, mới trao đổi tư tưởng và tự học để tiến bộ. Nhưng cũng nên lưu ý
là đoàn thể phải có khả năng sinh hoạt rộng rãi, phát triển hội viên và sinh
hoạt cả nội bộ lẫn sinh hoạt ngoại vi, cộng đồng, xã hội mới có thể đem tinh
thần phục vụ đến cho nhân thế.
Một đoàn thể đóng kín
là một đoàn thể chẳng bao lâu sẽ bị mai một và héo tàn “A group closed upon
itself will soon wither and die” dù đoàn thể đó là ái hữu, xã hội, tôn giáo hay
chính trị.
Người lãnh đạo không
chỉ phát triển đoàn thể cho mình, hay đoàn thể nào có mình là đủ, mà phải tạo
cơ hội cho người khác tham gia đoàn thể, để có cơ hội phát triển, đồng tiến xã
hội. Người lãnh đạo là người có tinh thần thông hiệp phong phú, biết kỹ thuật
kết hợp, đoàn kết để tạo thành sức mạnh nhằm xây dựng nhân quần xã hội ngày
càng thêm tốt đẹp về tình cũng như về lý.
Tình: Mục đích của đoàn thể
nhằm phục vụ các nhu cầu thiết yếu của tha nhân theo hệ cấp nhu cầu (Abraham
Maslow):(1) Nhu cầu căn bản sinh vật lý (physiological needs) như đói ăn, khát
uống; (2) Nhu cầu được sinh sống an toàn (security needs) không bị đe dọa bởi
bất cứ nguyên nhân nào, sống an cư, lạc nghiệp; (3) Nhu cầu được sống hội nhập,
(social needs) người là sinh vật xã hội, sống thành tập thể, hội nhóm, xã hội,
cộng đồng; (4) Nhu cầu được tôn trọng (esteem needs); (5) Nhu cầu thực hiện
được những điều mong ước, (self actualizing needs) lý tưởng của mình.
Lý: Nhu cầu sống thành tập
thể, hội nhóm, dù đoàn thể được tổ chức có quy củ theo luật lệ hiện hành (de
jure) hay tổ chức theo kết ước, bất thành văn (de facto) cũng phải theo những ý
niệm căn bản của nhân tình thể hiện qua cương thường đạo nghĩa làm căn bản
cho luật lệ hiện hành.
Xã hội, cộng đồng hay
đoàn thể là những tập thể chung sống giữa người và người trên hai bình diện
tình và lý. Muốn sinh hoạt được hữu hiệu, đoàn thể phải được điều hành hợp tình
và hữu lý thể hiện qua các nguyên tác căn bản được các quốc gia chấp nhận về
vấn đề tổ chức và quản trị hiệp hội và nhân sự hữu trách phải tuân thủ các
nguyên tắc luân lý nghề nghiệp (code of
ethics).
Hiện nay tại Hoa Kỳ,
cũng như tại các quốc gia tự do, các đoàn thể xã hội, ái hữu, cộng đồng …
thường được thành lập theo luật hiệp hội bất vụ lợi (not for profit
organization –NPO). Tuy chi tiết có thể khác nhau, nhưng tổng thể 50 tiểu
bang tại Hoa Kỳ có 50 bộ luật riêng về hiệp hội với các nguyên tắc căn bản
tương tự.
Hình thức tổ chức
thông thường theo luật lệ hiện hành, hội viên bầu các vị giám đốc vào Hội Đồng
Quản Trị (Board of Directors). Hội đồng Quản Trị thường có 3 chức năng chính:
Quyết nghị (deliberative), Chấp hành (executive) và Giám sát (oversight). Cả ba
cơ chế, tuy ba mà một, tuy một mà ba, đồng chịu trách nhiệm về sự thịnh, suy
của tổ chức, chứ không phải ba cơ chế biệt lập không liên hệ với nhau.
Cả ba cơ chế phải cùng
nhau quyết nghị về chính sách, chương trình, kế hoạch và phải hỗ trợ cho nhau
để thực hiện phần vụ của mỗi cơ chế và toàn bộ chương trình đã đề ra và được
chấp thuận.
Khi bầu, hội viên thể
hiện sự tín nhiệm và uỷ thác cho các vị giám đốc nhiệm vụ quản trị và điều hành
hiệp hội gọi chung là trách nhiệm được tín thác (fiduciary duty).
Sự kiện nhận trách
nhiệm được hội viên tín thác đòi hỏi các thành viên hữu trách phải chu toàn
nhiệm vụ qua ba tiêu chuẩn hành sự:
Cần mẫn: (duty of care): Chăm
lo sinh hoạt của tổ chức trong vấn đề hình thành và cập nhật các văn kiện căn
bản; thực thi chính sách, chương trình, phục vụ tổ chức và thành viên như nhiệm
vụ đã được quy định trong nội quy với tinh thần thận trọng, cần mẫn, tận tình,
và biết tiên liệu để tránh sự bất ổn, phân hóa, gây thiệt hại cho tổ chức và
hội viên về tinh thần và vật chất.
Trung tín (duty of
loyalty): Trung thành với bản điều lệ, nội quy để phục vụ hội viên, bảo vệ uy
tín, danh dự và tài sản của tổ chức; không được chiếm công vi tư, vi phạm
nguyên tắc quyền lợi tương phản (conflict of interest), không cạnh tranh
bất chính (unfair competition) bằng lời nói, hành động; phải tạo sự tín cẩn,
tôn trọng và hợp tác giữa các đồng sự, thành viên, trung thành với danh
xưng, tôn chỉ, mục đích.
Tuân phục (duty of
obedience): Tuân giữ các nguyên tắc điều hành nội bộ, luật lệ tiểu bang, liên
bang, báo cáo định kỳ về sinh hoạt, tài chánh, thuế khoá, nhật tu, tái
ghi danh thường niên giấy phép hoạt động theo luật định…
Vi phạm các trách vụ
nêu trên thường là nguyên nhân của sự bất tín nhiệm, bãi chức, hay tranh tụng
trong sinh hoạt đoàn thể ái hữu, tôn giáo hay xã hội cộng đồng…Hy vọng với tinh
thần cần, kiệm, liêm, chính thì mọi sinh hoạt sẽ được chu toàn và hanh thông
trong công tác phục vụ phúc lợi chung của tập thể người Việt cư ngụ tại hải
ngoại.
Đó cũng là ước nguyện
chung của tất cả chúng ta vậy.
(Thomas Trần Xuân Thời)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét