Xin trích đăng lại bài chia sẻ TÌNH BẠN - MỘT NHÂN ĐỨC VÀ MỘT MẦU NHIỆM
(Trích Thư Tín PTHK, T.2/2009)
TÌNH
BẠN - MỘT NHÂN ĐỨC VÀ MỘT MẦU NHIỆM
Tình Bạn Trong Thánh Kinh
Tình Bạn được Thánh Kinh nhắc
tới và ám chỉ với những bài học và câu chuyện về bạn bè tốt lẫn bạn bè xấu.
Trong Sách Sirach của Cựu Ước, chúng ta tìm thấy một sưu tập các tài liệu bao
gồm những câu châm ngôn về luân lý đạo đức, những câu nói của dân gian, cách
ngôn, những ca vịnh ngợi khen và thương cảm, những suy niệm thần học, những câu
châm ngôn trong các bài giảng, và những lời nhận xét bén nhọn về đời sống của
người Do Thái và những tập tục đạo đức trong thế kỷ thứ hai trước Chúa Kitô.
Thí dụ, “Không có gì quý bằng một người bạn trung tín, và không có cân nào có
thể đo lường được sự ưu tú của người bạn ấy” (Sirach 6:15). Và “Bởi vì anh có
một người bạn chỉ biết lo tiện ích cho riêng mình, nhưng sẽ không xuất hiện bên
cạnh anh vào lúc nguy khốn … Một người bạn trung thành tựa như một chỗ nương
thân vững vàng: kẻ nào tìm được một người bạn như thế thì đã tìm được một kho
tàng” (Sirach 6:8, 15). Bất kỳ ai kính sợ Thiên Chúa thì hướng dẫn tình bạn
đúng đắn, bởi vì anh ấy như thế nào thì kẻ hàng xóm cũng như thế ấy” (Sirach
6:17).
Sách Bà Rút trong Cựu Ước có kể
một câu chuyện về một góa phụ đã can đảm quyết định rời khỏi Moab , quê quán
của Bà, để đi đến xứ Giuđa với mẹ chồng người Do Thái cũng mất chồng và mất cả
các con trai của bà. Lời Bà Ruth nói với Bà Na-o-mi mẹ chồng mình là một trong
những lời tâm tình sâu sắc nhất trong mọi thứ văn chương về tình bạn và lòng
trung tín: “Mẹ đi đâu con đi đó; mẹ ở đâu con ở đó; dân của mẹ là dân của con; Thiên
Chúa của mẹ là Thiên Chúa của con. Mẹ chết ở đâu, con chết ở đó, và nơi đó con
sẽ được chôn cất” (Rút 1:16,17). Và truyện ông Giô-na-than, do Sách Samuel
trong Thánh Kinh kể lại, là một thí dụ cho thấy bổn phận của tình bạn quan
trọng không kém các nghĩa vụ và những cảm tình khác. Việc Giô-na-than bênh vực
Đavít là một thí dụ nổi bật nhất về lòng trung tín trong tình bạn, bởi vì sự
bênh vực ấy gây cho Jonathan hai nỗi đau – nỗi đau trước bổn phận làm con đối
với Hoàng Phụ Saul đang ganh tỵ với Đa vít chỉ vì Đa vít được lòng dân - và nỗi
đau của người con đang sẵn sàng kế vị Vua Cha. (The Book of Virtues – [Sách các
Nhân Đức] của William J. Bennett, chuyện kể của Jesse Lyman Hurlbut).
Tình Bạn: Một Lối Sống Chia Sẻ Chung với Nhau
Trong một bài viết, Paul Mahler
đã xác quyết, “Tình bạn rất quan trọng đối với chúng ta trong cuộc sống. Từ lúc
thiếu thời chúng ta thấy trẻ con nhanh chóng quyết định ai là bạn bè của chúng,
và đặc biệt hơn, ai sẽ là bạn thân nhứt của chúng. Việc chúng ta chọn ai là bạn
mình quan trọng hơn là ai được nhiều người ngưỡng mộ, hoặc ai làm chúng ta cảm
thấy được nhiều người ưa thích, và được cần đến. Những kẻ chúng ta quyết định
chọn làm bạn có thể làm cho chúng ta nên người hay làm cho chúng ta hư hỏng”.
Trong Sách các Nhân Đức, ông William Bennett cũng viết như sau, “Bậc cha mẹ đều
ý thức việc chọn bạn cho mỗi đứa con có tính cách quyết định như thế nào. Bạn
bè của con mình lúc còn nhỏ cho thấy con cái mình đang nhắm tới hướng nào. Bạn
bè thật quan trọng bởi vì bạn tốt đưa bạn đi lên, và bạn xấu dìm bạn xuống. Do
đó bạn bè của con cái rất quan trọng, và ai là bạn bè của chính chúng ta cũng
quan trọng không kém, bởi vì đó là tấm gương cho con cái. Thánh Kinh nói rằng
nếu chúng ta “đi với người khôn, ắt sẽ nên khôn; chơi cùng kẻ dại, sẽ mang lấy
họa” (Cách Ngôn 13:20). Cho dù chúng ta có đồng ý hay không thì những bạn bè
chúng ta lựa chọn vẫn ảnh hưởng tốt hơn hay tệ hơn đến chúng ta.”
Thật vậy, trong đời sống lúc
nào chúng ta cũng cảm thấy thôi thúc phải tìm bạn chân thật để chia sẻ lúc vui
lúc buồn, khi lo âu, những lúc gặp khó khăn, và cũng nhờ bạn bè cho ta ý kiến
khôn ngoan, lời cố vấn đúng đắn, lời khuyên có ích, và vô số điều hay khác nữa.
Suốt chiều dài lịch sử của nhân loại, người ta đã chứng kiến rất nhiều mẫu
gương của cả tình bạn chân thật lẫn thứ tình bạn phản bội, nhưng xem ra phản
bội nhiều hơn chân thật. Ngay cả Chúa Giêsu cũng bị một trong những môn đệ đầu
tiên của Người phản bội, mặc dù trong suốt ba năm làm mục vụ ở trần gian, Chúa
luôn luôn cư xử bằng tình bạn chân thật với các môn đệ của Người và cả với
chúng ta ngày nay như Chúa đã từng tâm sự, “Thầy không còn gọi các con là tôi
tớ … nhưng Thầy gọi các con là bạn hữu” (Gioan 15:15).
Tiếc thay, tình bạn đích thực
khó kiếm trong thế giới chúng ta đang sống, thế giới của văn hóa sự chết, đầy
dẫy bạo lực, ghen ghét và thù nghịch. Nhờ trực diện với một thế giới xa lìa
Thiên Chúa cách nay độ nửa thế kỷ, ông Eduardo Bonnín, vị sáng lập Phong Trào
Cursillo của chúng ta, với ơn đặc sủng thành lập Phong Trào cùng với một số bạn
hữu trong nhóm nòng cốt đã khởi sự thiết lập Phong Trào, dùng Tình Bạn như là
một trong mười ý tưởng nền tảng xây dựng nền móng cho Phong Trào (10 Câu Chuyện
Mạn Đàm tại Cala Figuera). Ông Bonnín trong bài chia sẻ về Tình Bạn đã nói,
“Phương thức sâu sắc nhứt để cùng kẻ khác sống chung với nhau là tình bạn.” (La
forma más profunda de convivencia es la amistad). Sách ‘Những Tư Tưởng Nền
Tảng’ cũng xác quyết về sự cần thiết của tình bạn “Khóa Ba Ngày là một kinh
nghiệm sống chia sẻ, nghĩa là người trợ tá phải ‘cởi mở như những người bạn mà
không cần phải trực tiếp hay gián tiếp tìm hiểu về tình trạng tâm linh của khóa
viên. Tình bạn chân thật là con đường duy nhứt đưa đến sự cởi mở đích thực và
đối thoại hữu hiệu. Ở đây kỹ thuật chỉ là một hòa hợp giữa hoàn cảnh, sự tế
nhị, khéo léo và tinh thần tông đồ” (TTNT # 314).
Tình Bạn: Nghệ Thuật Sống Hạnh Phúc
Trong Lời Nói Đầu giới thiệu
quyển sách “Friendship: The Art of Happiness” (Tình Bạn: Nghệ Thuật Sống Hạnh
Phúc) của Tiến Sỹ John Cuddeback, ông Curtis Martin viết: “Trái tim chúng ta
bảo rằng chúng ta được dựng nên cho tình bạn, và có một thực tế phù hợp với ước
muốn của chúng ta, nhưng làm sao thực thi đây? GS John Cuddeback đã cho chúng
ta một lợi khí tuyệt vời: đó là quyển sách “Tình Bạn: Nghệ Thuật Sống Hạnh
Phúc”. Tình bạn chân thực không tự nhiên mà có – đó là một nghệ thuật phải học
hỏi, một tài năng phải thực hành. Tình bạn chỉ cho chúng ta nhìn thấy sự khôn
ngoan của người xưa, thấy những gì mà những người nam và người nữ tốt nhứt
trong quá khứ đã học cách rèn luyện tình bạn để nó được vững bền mãi mãi.” Do
đó, hầu hết những tư tưởng trong bài này người viết xin mạo muội được phép
trích dẫn từ quyển sách vừa đề cập và chân thành ghi ơn GS John Cuddeback đã
chỉ dạy chúng ta học và thực hành cách làm bạn, trở nên bạn và mang bạn mình
đến cùng Chúa Kitô, đó là mục tiêu tối hậu của Phong Trào Cursillo chúng ta.
Theo TS John Cuddeback, tình
bạn chân thật nào dẫn đến hạnh phúc, cũng đều là tình bạn dành riêng cho những
kẻ đang sống một lối sống, cụ thể là một đời sống đức hạnh. Chúng ta không thể
có tình bạn chân thực nếu chúng ta thiếu đạo đức. Lối sống mà tình bạn đòi hỏi
là một đời sống đức hạnh. Trong xã hội chúng ta, đa số nghĩ rằng họ biết tình
bạn là gì và nghĩ rằng họ có tình bạn, và vì thế tình bạn thường được quý
trọng. Nhưng ngược lại, có rất ít người cho rằng họ biết đức hạnh là gì, và họ
đang thực hành nó. Do đó, tình trạng thiếu vắng đạo đức trong xã hội hình như
không làm họ bận tâm cho lắm. Nhưng có tình bạn mà thiếu đức hạnh thì đó là
cách tự chuốc lấy thất bại. TS Cuddeback trích Thư Thánh Gioan để minh chứng
điều vừa nêu lên, “Nếu chúng ta nói là chúng ta hiệp thông với Người mà lại đi
trong bóng tối, thì chúng ta nói dối và không hành động theo sự thật” (1Gioan
1:6). Tình bạn chân thật và đức hạnh không thể tách rời nhau được; cả hai cùng
với nhau là chìa khóa hạnh phúc con người.
Về sự khôn ngoan của người xưa
về tình bạn, TS John Cuddeback nói rằng triết gia Aristotle xem tình bạn như là
“một nhân đức hoặc bao hàm nhân đức, và hơn nữa, tình bạn là điều cần thiết
nhứt cho quan niệm về cuộc sống. Bởi vì thiếu vắng bạn hữu thì chẳng ai muốn
sống, cho dù họ có tất cả mọi thứ .....” (Nicomachean Ethics, 1155ª 1-3). Vì
thế, Triết Gia Aristotle đã nói rõ ràng rằng sống trong tình bạn chân thực là sống
một đời sống thoải mái, để được hạnh phúc. Trong quyển sách nói trên của mình,
TS Cuddeback cố gắng giúp chúng ta hiểu rõ làm thế nào để cho việc sống đức
hạnh và việc kết nghĩa bằng tình bạn chân thực cần phải liên kết với nhau, hoặc
trên thực tế cả hai là một. Sống một đời sống đức hạnh không chỉ đòi buộc phải
biết cái gì là quan trọng hơn cả, mà còn đòi hỏi nhiều hơn thế nữa. Tất cả nhân
đức là sống đúng sự thật mà bạn biết rõ. Nhân đức là một thói quen tốt. Làm
những việc lành, như ra tay giúp đỡ những người thiếu thốn, thì phát huy một
thói quen làm những việc tốt lành ấy. Định nghĩa của “nhân đức” trong Giáo Lý
của Giáo Hội Công Giáo tương tự như định nghĩa của Triết Gia Aristotle. Công
bình là “đức tính luân lý thể hiện qua quyết tâm trả cho Thiên Chúa những gì
thuộc về Thiên Chúa và trả cho tha nhân những gì thuộc về tha nhân” GLCG #
1807). Thí dụ, một người chủ luôn luôn trả cho công nhân của mình tiền lương để
sống, ngay cả khi ông ta có thể xoay xở trả lương ít hơn.
Tình Bạn: Một Nền Tảng của Phong Trào Cursillo
Ông Eduardo và các bạn chắc đã
được Chúa Thánh Linh mặc khải soi sáng, quen gọi là Đặc Sủng Hình Thành Phong
Trào, khi họ nghĩ đến tình bạn là một trong những ý tưởng hay yếu tố nền tảng
giúp hình thành Phong Trào Cursillo với sứ mạng trở thành chứng nhân sống động
cho Chúa Kitô trong các môi trường. Theo ý kiến của TS Cuddeback, bởi vì trong
tình bạn con người được kết hiệp trong tình yêu thương lẫn nhau và lòng quý mến
nhân đức, cho nên bạn hữu chia sẻ chung một cái nhìn về cuộc sống tốt lành và
cố công đạt cho bằng được cuộc sống ấy. Nhờ vậy tình bạn tạo nên những “cộng
đồng tí hon” ngay trong cộng đồng rộng lớn hơn; những cộng đồng tí hon này là
đơn vị căn bản giúp cho nỗ lực hoàn thiện. Theo cách này, công đồng tí hon của
tình bạn rất giống đơn vị bình thường căn bản nhứt trong Khóa Cursillo, đó là
nhóm nhỏ sinh hoạt tại mỗi bàn, quen gọi là ‘decuria’, và cũng tương tự như Hội
Nhóm Nhỏ trong Ngày Thứ Tư của PT Cursillo.
Các Nhóm Thân Hữu, và Hội
Ultreyas vững mạnh, nuôi dưỡng lòng sùng đạo, việc học đạo và hành đạo với
nhiều chứng nhân sống động và chân thực chắc chắn sẽ tạo một nền tảng cần thiết
cho một Phong Trào Cursillo vững vàng và đáng tin cậy ở bất cứ cấp bậc nào. Một
cá nhân Cursillista có một vị thế trong Phong Trào Cursillo của mình cấp giáo
phận qua chỗ đứng của họ trong Nhóm Thân Hữu và Hội Ultreya mà họ tham gia. Đặc
điểm của các ‘cộng đồng tí hon’ hay của các Nhóm Thân Hữu và Ultreyas định đoạt
đặc điểm của PT Cursillo ở cấp giáo phận hay quốc gia. Khi mà tình bạn chân thực
triển nở giữa các Cursillistas với nhau trong các Hội Nhóm và Ultreyas thì các
cộng đồng Kitô hữu sẽ được hình thành do những người hay nhóm nhỏ kết hợp với
nhau để theo đuổi nhân đức. Chính Thánh Phaolô, trong suốt quá trình mục vụ
“độc lập” của Ngài và khi đương đầu với những hoàn cảnh bất thường, cũng đã
phải chấp nhận một số canh tân về tín lý hầu có thể biện minh cho những lời kêu
gọi liên lĩ của ngài thúc giục các tín hữu quy tụ lại với nhau thành những cộng
đồng hiệp nhứt.
Sách “Những Tư Tưởng Nền Tảng”
PT Cursillo xác nhận, “Nhóm được dựa trên sức mạnh của tình bạn. Và như ĐGH
Phaolô VI, khi đặt ấn tín chấp thuận các Nhóm của chúng ta, Ngài nói rằng tình
bạn căn cứ vào những quan hệ thiêng liêng, có khả năng tạo nên sự dễ dàng cho
các nỗ lực tông đồ mà không ai dám thực hiện một mình” (NTTNT # 432).
Khi giúp chúng ta hiểu rõ hơn
về tình bạn, TS John Cuddeback đã lưu ý chúng ta về câu hỏi đơn giản của Triết
Gia Aristotle như sau: Bạn bè cùng làm gì với nhau? Và câu trả lời là: “Bạn bè
làm điều tốt lành cho nhau” và họ “sống với nhau” (Nicomachean Ethics, 1157b7).
TS Cuddeback giải thích ý tưởng của Triết Gia Aristotle rằng “bạn bè muốn sống
với nhau cùng một lối sống, hành động như nhau, trải qua những năm tháng chung
cùng với nhau, v.v...” TS Cuddeback dẫn dắt chúng ta chú tâm đến việc bạn bè
cùng nhau thăng tiến như thế nào đường nhân đức tiên vàn là “nhân đức luân lý”
(Tình bạn là một trong những cách trợ giúp tự nhiên quan trọng nhứt để đi con
đường ngay thẳng và chật hẹp.), và về mặt “nhân đức trí tuệ” (Sự khôn ngoan
truớc đây đã được nhắc đến như là một thí dụ quan trọng nhứt của một nhân đức
trí tuệ). TS Cuddeback nói thêm rằng những nhân đức luân lý và nhân đức trí tuệ
không phải dễ tạo ra; cần phải có thời gian và nhiều công sức. Triết Gia
Aristotle xem vai trò của những lần nói chuyện lành mạnh, mà trong PT Cursillo
gọi là tiếp xúc cá nhân, là điều quan trọng hàng đầu trong tình bạn. Chắc chắn,
khi nói chuyện phải truyền thông sự thật, việc này không là gì khác hơn là chia
sẻ điều mình đã thấu triệt. Bạn bè giúp nhau thăng tiến trong sự hiểu biết,
thấu đáo và trưởng thành trong những thói quen theo đuổi sự hiểu thấu sâu sắc
lớn lao hơn. Xã hội hay môi trường chúng ta ngày nay tràn ngập những phương
tiện kỹ thuật cao, như điện thoại, truyền hình, trò chơi điện tử, âm nhạc, điện
thư, gởi thư qua internet, v.v..., nhưng rất tiếc những thứ này trở thành những
cản trở các dịp tiếp xúc cá nhân, chuyện trò trực tiếp giữa bạn bè với nhau, và
chúng có khuynh hướng cô lập con người. Các Cursillistas được khuyến khích trở
nên những chứng nhân sống về tình bạn trong Chúa Giêsu Kitô trong Ngày Thứ Tư
của mình hầu họ có thể sống chung và chia sẻ với nhau những gì là căn bản để
trở nên Kitô hữu đích thực trong thế giới tân tiến ngày nay, tương tự như câu
chuyện trong bản tin sau đây của Hãng Truyền Thông ABC đã phổ biến sâu rộng
trong ngày 22-12-2008 vừa qua như một chuyện lạ hiếm có:
Tựa đề một bài báo gây ngạc
nhiên nhiều người: “Một vụ bị cho nghỉ việc biến thành một quà tặng Giáng Sinh
cho một Gia Đình”:
Anh Ralph Hanahan tình nguyện
bị cho nghỉ việc để người bạn đồng nghiệp ít thâm niên hơn khỏi mất việc làm.
Hai anh Mike Camp và Ralph Hanahan làm việc chung với nhau rất mật thiết trong
5 năm phụ trách phần kỹ thuật máy vi tính tại Trường “Governor’s School of the
Arts & Humanities” ở Greenville, SC. Nếu có máy vi tính nào bị hư hoặc
e-mail không mở được thì giáo sư và học viên đến nhờ một trong hai anh sửa máy
giùm. Anh Camp, 40 tuổi nói, “Chúng tôi làm việc theo tinh thần đồng đội, và
thay phiên nhau dễ dàng ... giống như hai phân nửa của cùng một trái tim.”
Nhưng khi cuộc khủng hoảng kinh
tế rung chuyển cả nước đã ập tới Tiểu Bang South Carolina, anh Hanahan, 55
tuổi, lo lắng nhà trường chắc sẽ buộc lòng chọn giữa anh và anh Camp để cho
nghỉ việc. Anh Camp nói, “Tôi nghĩ rằng anh ấy thấy rõ nếu xu hướng này không
dừng lại, chắc sẽ phải có vấn đề bớt nhân sự ở trường và một trong hai chúng
tôi sẽ bị cho nghỉ việc.”
Thật vậy, nhà trường đã báo
động tháng vừa rồi là sẽ có một số nhân viên chưa biết bao nhiêu bị mất việc
trong những tuần lễ tới đây. Nhằm tránh những quyết định khó khăn và giúp người
bạn nhỏ tuổi hơn, anh Hanahan đã làm một điều gây rúng động cả trường và thành
phố ở đó.
Ông Hiệu Trưởng Bruce Haverson
nói: “Thật vậy, anh Ralph Hanahan đã đến nói với tôi, ‘Nếu ông phải cho nghỉ
việc thì ông nên cho tôi ra đi.” Anh Ralph, người đã làm việc cho chính phủ
Tiểu Bang hơn 20 năm rồi, đã tình nguyện xin nghỉ việc để tên anh Camp không bị
dính trong danh sách những người bị cho nghĩ việc.
Anh Camp nói, “Tôi rất ngạc
nhiên vào thời buổi này và trong lúc này lại có kẻ xử sự như thế. Chúng tôi
mang ơn anh ấy suốt đời.”
Anh Camp gây ngạc nhiên cho anh
Hanahan trên Chương Trình “Good Morning America” hôm nay để công khai cám ơn
anh ấy đã hy sinh cho anh.
Tình Bạn: Một Khí Cụ Hữu Ích Trong Việc Truyền Giáo
Sách “Cẩm Nang Lãnh Đạo” đã
viết, “Phong Trào Cursillo, qua kinh nghiệm của những vị sáng lập, đã khám phá
ra rằng tình bạn có thể được sử dụng để phục vụ Chúa Kitô và Giáo Hội của Người
trong khi đó vẫn đáp ứng được nhu cầu của các cá nhân thành phần của một cộng
đồng.”
Đức cố Hồng Y Nguyễn Văn Thuận,
nguyên Chủ Tịch Hội Đồng Tòa Thánh về Công Lý và Hòa Bình, đã được nhiều người
biết đến nhờ các chứng từ của ngài làm chứng cho Chúa Giêsu Kitô trong suốt 13
năm bị tù đày trong các trại giam của Cộng Sản Việt Nam. Tháng 12 năm 1999, Đức
cố Hồng Y đã được ĐGH Gioan Phaolô II đề nghị và khuyến khích chia sẻ chứng từ
của Ngài về 13 năm trong lao tù của Việt Cộng nhân dịp tuần Tĩnh Tâm dành cho
Giáo Triều Roma Năm 2000. Trong một bài nguyện gẫm, ĐHY Thuận đã nói ngài rất
đổi ngạc nhiên khi nhận thấy tình yêu Kitô giáo trong tình bạn đã có thể thay
đổi những người cai tù và môi trường ở đó. Sau đây là một trong nhiều câu
chuyện ngài đã kể lại:
“Khi tôi bị Cộng Sản tại Việt Nam
biệt giam, có năm anh cán bộ được phái đến canh gác tôi, với hai người thường
trực có mặt ngày và đêm. Cứ mỗi hai tuần thì có một toán người canh gác được
gởi đến mỗi hai tuần để họ không bị tôi làm “ô nhiễm”. Một thời gian sau đó
người cai tù ngưng không gởi cho tôi những người canh tù chỉ đến một lần mà
thôi trong một thời gian tương đối ngắn bởi vì ban quản trại tù lo ngại không
mấy chốc cả toán canh gác tù có thể bị tôi làm “ô nhiễm”. Trong ít ngày đầu
tiên, những anh cai tù chỉ trả lời “Có” hay “Không” hoặc chỉ nói ngắn gọn khi
tôi hỏi họ điều gì. Tôi không nản lòng về thái độ thiếu thân thiện của họ bởi
vì tôi nghĩ đến tình yêu Thiên Chúa dành cho họ. Một buổi sáng nọ, tôi thử đánh
liều gợi chuyện trước, kể cho họ nghe những chuyến du lịch ngoại quốc của tôi,
về cuộc đời, văn hoá, kinh tế, kỹ thuật điện tử, tự do, dân chủ tại một vài
quốc gia tôi đã đi thăm, như Gia Nã Đại, Nhật Bổn, Phi Luật Tân, Tân Gia Ba,
Pháp, Đức, Úc Châu, Áo Quốc, v.v... Những câu chuyện tôi kể làm cho họ tò mò
đặt ra nhiều câu hỏi. Tôi luôn luôn cho họ câu trả lời. Không bao lâu sau chúng
tôi trở thành bạn. Họ muốn học một ngoại ngữ, tiếng Pháp hay tiếng Anh. Tôi sẵn
sàng giúp họ. Dần dần, những anh cai tù trở thành học trò của tôi. Môi trường
nhà tù thay đổi, liên hệ giữa chúng tôi được cải thiện. Ngay cả cấp trên khi
nhận thấy tôi đối xử với thuộc cấp họ thân thiện và nhân ái, họ không những bảo
tôi cứ tiếp tục giúp đỡ mà còn gởi thêm những người khác đến để tôi dạy sinh
ngữ cho họ.”
Hồng Y Nguyễn Văn Thuận kể một
câu chuyện về hai người cai tù đã theo học tiếng Latinh ở đâu đó bởi vì họ được
chỉ định “nghiên cứu” các tài liệu của Giáo Hội. Khi xem tập vở ghi chép bài
học, ngài cho biết họ có vẻ học khá tốt. Một người trong họ muốn ĐHY dạy họ vài
bài hát bằng tiếng Latinh. Ngài hát vài bài để họ chọn, như bài Salve Regina,
Veni Creator, Ave Maris Stella, v.v... Anh ta quyết định chọn bài “Veni
Creator” (Xin Chúa Ngôi Ba đoái thương viếng thăm, ...). ĐHY kế tiếp, “Rồi một
buổi sáng lúc 7 giờ, tôi nghe tiếng chân anh chạy xuống cầu thang gỗ ra phía
sau vườn để tập thể dục như mọi ngày. Trong khi múc nước tắm ngoài trời gần
phòng giam của tôi, anh ta đã hát “Veni Creador Spiritus ...”... Tôi vô cùng
xúc động, tự hỏi làm thế nào một anh công an cọng sản có thể hát bài “Veni
Creator Spiritus” cho tôi nghe. Tôi tin chính Chúa Thánh Thần, một cách lạ
lùng, đã dùng kẻ vô thần này giúp một giám mục Công Giáo bị tù cầu nguyện, bởi
vì vị đó quá yếu nhược và mất tinh thần đến độ không còn cầu nguyện được nữa.
Chỉ có công an mới có quyền hát to các bài hát đạo trong môi trường đó mà thôi
.”
Hồng Y Nguyễn Văn Thuận nêu
đích danh một người bạn tù đặc biệt đã từng là một viên chức cao cấp cộng sản,
nhưng đã bị bắt vì tội tham nhũng và đã bị nhốt chung phòng để theo dõi ngài,
nhưng về sau hai người trở thành bạn tốt. Một ngày trước khi được phóng thích,
người bạn ấy đã hứa cầu nguyện cho ĐHY Nguyễn Văn Thuận. Anh ấy nói với ĐHY,
“Nhà tôi không xa LaVang, chỉ cách ba cây số thôi. Tôi sẽ đi LaVang cầu nguyện
cho anh.”
La Vang là nơi Đức Mẹ đã hiện
ra năm 1798 tại Việt Nam để an ủi và bảo vệ những người Công Giáo đến trốn ở đó
để khỏi bị bách hại. Do đó người Công Giáo Việt Nam đã tặng cho Đức Maria tước hiệu
“Đức Mẹ LaVang” kể từ thời kỳ ấy. Hồng Y Nguyễn Văn Thuận tin lòng thành thật
của anh bạn, nhưng hoài nghi về lời hứa của một người Cộng Sản cầu nguyện cho
ngài.
ĐHY kể tiếp: Sáu năm sau, đang
lúc tôi ở biệt giam, tôi được một bức thư của ông Hải, người bạn tù. Lạ lùng
thật! Lạ hơn nữa là lời lẽ của ông như sau: Anh Thuận thân mến, tôi đã hứa với
anh, tôi sẽ đi cầu nguyện Đức Mẹ LaVang cho anh. Mỗi chủ nhật, nếu trời không
mưa, lúc nghe chuông LaVang, tôi lấy xe đạp vào trước đài Đức Mẹ, vì chiến
tranh bom đạn đã đánh sập nhà thờ rồi. Tôi cầu nguyện như thế này: Thưa Đức Mẹ,
tôi không có đạo, tôi không thuộc kinh nào cả. Nhưng tôi đã hứa sẽ cầu nguyện
Đức Mẹ cho anh Thuận, nên tôi đến đây. Xin Đức Mẹ biết anh Thuận cần gì thì cho
anh ấy.” Hồng Y Nguyễn Văn Thuận hết sức cảm động trong một lát, đọc đi đọc lại
bức thư. Sau đó ngài nhắm mắt lại và thầm thỉ, “Lạy Mẹ, Mẹ đã dùng anh cộng sản
này để dạy con cầu nguyện; chắc Mẹ đã nhậm lời anh ấy, con mới còn sống đây!”
(viết theo Sách “Hồng Y Phanxicô-Xaviê Nguyễn Văn Thuận Qua Những Lời Tự
Thuật”, LM Phanxicô B. Trần Văn Khả sưu tập, Cơ Sở Hy Vọng xuất bản, 2004).
Thánh Phaolô: Người Bạn Gương Mẫu trong Ngày Thứ Tư Chúng Ta
Không gì thích hợp và tiện lợi
cho người Cursillistas chúng ta cho bằng suy niệm về đời sống của Thánh Phaolô
Quan Thầy của Phong Trào chúng ta, trong khi Giáo Hội đã bắt đầu mừng Sinh Nhật
Hai Ngàn Năm của Thánh Phaolô kể từ 29 tháng 6 năm ngoái 2008 cho đến tháng 6
năm nay. Và chúng ta cũng cần sốt sắng nghiên cứu học hỏi phương cách truyền
giáo của ngài nữa. Có rất nhiều bài học chúng ta có thể học được nơi Thánh nhân
hầu có thể trung thành thực hiện mục tiêu của Phong Trào thân thương chúng ta,
và đó cũng là Sứ Mạng của Giáo Hội. Bà Dale O’Leary (Avon
Park , FL ) đã viết một bài với tựa
đề “Những Người Bạn Suốt Đời” (ngày 10 tháng 11) suy niệm về Tâm Thư thứ 2 của
Thánh Phaolô gởi Ti-mô-tê (2 Tim 1:4-5), được in trong tập sách “Praying with St. Paul ” (Cầu Nguyện với
Thánh Phaolô), do Nhà Xuất Bản Magnificat phát hành năm 2008. Đây là một thí dụ
rất thích hợp.
“Thánh Phaolô đã rao giảng Tin
Mừng tại nhiều thành phố. Chúng ta có thể nhận ra trong các tâm thư gởi đi,
ngài đã tạo được những mối liên hệ tự nhiên và siêu nhiên thật mật thiết, và
khi bị tù ở Roma ngài luôn nhớ đến những người bạn ấy. Ngài biết mình sẽ không
bao giờ gặp lại hầu hết những bạn hữu của mình --- trong cuộc đời này.
Dời chỗ ở thật khó khăn vô
cùng. Tôi đã sống trong bảy tiểu bang khác nhau và mười sáu căn nhà khác nhau.
Mỗi lần dời chỗ cư trú có nghĩa là bỏ lại bạn bè thân thiết. Mỗi lần chia tay
thường là những lúc ưu sầu đầy nước mắt. Chúng tôi hứa hẹn giữ liên lạc với
nhau, nhưng rồi những tấm thiệp Giáng Sinh bị trả lại chưa mở ra, những thư
điện tử e-mail bị trả lại với lời ghi chú “người nhận không ai biết”, như một
kẻ nào đó đã từng ghé qua cuộc đời chúng ta, đã từng chia sẻ niềm vui và sầu
khổ với chúng ta, nay đã mất đối với chúng ta. Chúng ta có thể không bao giờ
nhìn thấy họ lần nữa – trong đời này.
Khi các bạn hữu của Thánh
Phaolô tại Caesarea được tiên tri Agabus báo tin là nếu Thánh Phaolô đi
Giê-ru-xa-lem, ngài sẽ bị bắt và sẽ bị nộp cho Dân Ngoại làm tù binh, các bạn
hữu của ngài khóc lóc van xin ngài đừng đi. Thánh Phaolô chắc sẽ không bị xiêu
lòng; nếu đó là thánh ý Thiên Chúa dành cho ngài, ngài sẽ ra đi.
Có những lúc phải di chuyển xa
gia đình và bạn bè, thật khó khăn đến độ chúng ta cảm thấy lòng tan nát, tuy
nhiên chúng ta phải phó thác vào Chúa Quan Phòng vì Người biết những gì tốt cho
chúng ta.
Tôi đã trải qua một kinh nghiệm
tương tự. Tôi nghĩ chúng tôi đã tìm được một nơi hoàn hảo rồi – một thành phố,
một nhà thờ, một căn nhà, mọi thứ mà tôi hằng mơ ước, nhưng đặc biệt hơn hết,
những bạn hữu tuyệt vời. Và sau đó chồng tôi lại chọn một việc làm ở một thành
phố khác -- nơi mà tôi không hề muốn đến ở. Tôi chẳng muốn dọn đi tí nào!. Tôi
thắc mắc với chương trình của Chúa, nhưng khi nhìn lại tôi thấy rõ ràng việc
dọn đến chỗ ấy là chương trình của Thiên Chúa, không phải chỉ cho chồng tôi, mà
cho tôi, cho công việc của tôi, cho mỗi đứa con của tôi.
Những giọt nước mắt của tôi đã
biến thành niềm vui, và tôi biết rằng một ngày nào đó tôi sẽ được đoàn tụ trên
thiên đàng với các bạn hữu mà tôi đã bỏ lại đàng sau.”
Để kết luận, chúng ta hãy noi
gương Ông Xi-mê-ong và Thánh Phaolô. Càng liên kết mật thiết với Chúa Giêsu,
chúng ta sẽ càng nhận biết Người. Nếu lắng nghe, chúng ta sẽ nghe Người trong
sự thinh lặng của con tim chúng ta, nói những lời thương yêu và xác nhận chúng
ta. Nếu nhìn kỹ, chúng ta sẽ thấy Người trong gia đình và bạn hữu chúng ta,
trong những người anh chị em chúng ta trong Chúa Kitô, trong những kẻ nghèo khó
chung quanh chúng ta – và trên hết mọi sự trong mầu nhiệm Thánh Thể. Vì thế,
chúng ta hãy ôm Người vào lòng, và hãy để Người gọi mỗi người chúng ta đến với
trái tim Người. (The Word Among Us, 29-12-2008).
Hãy tiến lên! Ultreya!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét