Tiếng gọi của Chân Thiện Mỹ
Nguyễn
Viết Chung
Trần Duy Nhiên
Linh mục Augustine và một giáo dân
Một con người lặng lẽ
Tháng 4 năm 2002, linh mục Antôn Nguyễn Ngọc Sơn phối hợp với Viện Y Dược học
Dân tộc TP. Sài Gòn tổ chức một khóa huấn luyện cho những người thiện chí xung
phong chăm sóc người nghiện ma túy. Tôi để ý đến một người trung niên khắc khổ,
lặng lẽ theo dõi chăm chú và cặm cụi ghi chép những bài học về lý thuyết và chữa
trị theo phương pháp cổ truyền do các bác sĩ Đông y của Viện giảng dạy. Tôi hỏi
một nữ tu trong Ban Tổ chức xem người ấy là ai. Câu trả lời làm tôi ngỡ ngàng:
đó là bác sĩ Tây y Nguyễn Viết Chung, một chuyên viên về ký sinh trùng và da liễu.
Hai tháng sau, cũng tại viện Y Dược học Dân tộc, cha Sơn tổ chức một khóa
cai nghiện mang tên là Khóa Phục sinh. Các bác sĩ của viện phụ trách phần chữa
trị thể lý. Các linh mục, tu sĩ và một vài giáo dân đến giúp củng cố phần tâm
linh. Một hôm, tôi đến dự giờ cầu nguyện buổi tối do một nữ giáo dân hướng dẫn.
Sau phần trình bày lý thuyết, vị ấy yêu cầu những ai thấy cần được đặt tay cầu
nguyện thì hãy bước lên. Bác sĩ Chung cũng là một người theo giúp khóa ấy. Ông
bước lên đầu tiên, quỳ xuống trước mặt người giáo dân kia, xin đặt tay cầu nguyện
cho mình. Cử chỉ khiêm tốn này làm cho nữ tu phụ trách nhóm cai nghiện cảm động
nói với tôi: “Thầy Chung là phó tế sắp được
thụ phong linh mục trong một ngày gần đây. ”
Cuối năm 2002, tôi được Dòng Vinh Sơn mời đến dạy Pháp văn cho một số thầy
chuẩn bị đi học thần học ở nước ngoài. Tại đây, tôi gặp thầy phó tế, bác sĩ
Chung. Thế rồi, qua những chia sẻ khiêm tốn nhưng đầy chân tình, tôi biết được
chiều kích cao vời của một con người mờ nhạt, thậm chí điên rồ, nếu ta nhìn với
nhãn quan của xã hội ngày nay. Sau đây là hành trình của một tâm hồn qua những
chặng đường hiếm thấy.
Hoàn cảnh và ước mơ
Khi nói về cuộc di cư năm 1954, người ta lại nghĩ đến gần một triệu tín hữu
Công giáo rời quê cha đất tổ để đi vào miền Nam, với hai bàn tay trắng, hầu tìm
một nơi có thể tự do biểu lộ đức tin của mình. Thân phụ của Nguyễn Viết Chung hồi
đó là Nguyễn Viết Chương vào Nam không vì lý do ấy. Anh không phải là Kitô hữu,
và tôn giáo không bao giờ là một vấn đề đối với anh. Như mọi người thuộc giai cấp
nông dân thất học và nghèo xơ nghèo xác trong làng mình, anh Chương chỉ có một
đạo duy nhất, ấy là “đạo làm người” theo truyền thống Việt Nam. Nếu ai hỏi anh
theo đạo nào, anh bảo rằng anh theo đạo Ông Bà, mà không thắc mắc xem “đạo thờ
Ông Bà” có nghĩa là gì một cách cụ thể: đấy có thể là đạo mà ông bà đã theo và
truyền lại, hoặc đấy có thể là đạo thờ cúng ông bà, tổ tiên. Năm 26 tuổi, nhân
biến cố 1954, anh Chương rời thôn Ngô Xá, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định, dẫn vợ
con đi theo người cô vào Nam với hy vọng tìm một con đường thoát khỏi cảnh
nghèo túng, cái túng thiếu cơ cực khiến cho chị Chương phải mất đi đứa con thứ
hai và thứ ba khi chúng vừa chào đời. Anh cảm thấy hài lòng khi được nhận làm một
binh nhì trong quân lực Việt Nam Cộng Hòa, dù bị chuyển lên cao nguyên để đóng
quân tại Trạm Hành, nơi vòng đai Đà Lạt, cách thị trấn 12 km. Năm 1955, người
con thứ tư chào đời tại đây. Anh đặt cho con một cái tên gần giống tên mình:
Nguyễn Viết Chung. Chung không còn nhớ gì về vùng núi nơi mình được sinh ra, vì
năm 1960, cha cậu đã chuyển về Sài Gòn để phục vụ trong một đơn vị không tác
chiến. Khi vừa có trí khôn, cậu bé Chung phải đối diện ngay với thảm cảnh của một
gia đình nghèo. Đồng lương của một quân nhân cấp hạ sĩ chỉ vừa đủ cho hai vợ chồng
và 4 đứa con sống qua ngày chứ không thể nào có một cuộc sống cho ra sống. Bà
Chương là một phụ nữ bình dân, mù chữ, hằng ngày chỉ biết thắp nhang lên bàn thờ
van vái ơn trên phù hộ cho chồng, cho con. Ông Chương là một người sống rất
đúng với chất trung - nghĩa - lễ - trí - tín. Tuy nhiên, cái nghèo đã khiến ông
trở thành một người cộc cằn, vì thế, không ít lần ông đã gay gắt nóng giận với
vợ con mình. Hình ảnh về “mái ấm gia đình” còn lưu lại trong ký ức tuổi thơ của
Chung là nỗi sợ khiếp đảm khi phải đứng trong xó nhà chứng kiến cảnh mẹ trở
thành nạn nhân cho các cơn giận của cha. Từ thuở còn là học sinh tiểu học,
Chung mơ hồ nghĩ rằng mình sẽ không lập gia đình, vì gia đình đối với cậu là một
cái gì khủng khiếp. Cậu sợ gia đình, sợ phải tạo thêm một gia đình bất hạnh.
Sống trong hoàn cảnh này, trí óc non nớt của cậu nảy sinh một ước mơ kèm
theo một quyết tâm: phải học thật giỏi để cứu gia đình khỏi cảnh nghèo. Thế là
cậu cắm cúi học tập trong những trường công lập hạng hai ở Sài Gòn. Niên khóa
1970 - 1971, cậu là một học sinh xuất sắc của lớp đệ tứ trường Trung học Cộng Đồng
Quận 6. Sau khi thi đậu trung học đệ nhất cấp, cậu quyết định học ngay lớp đệ
nhị mà không theo học đệ tam. Cậu phải làm học bạ giả và ra trường tư mà học.
Tuy nhảy lớp nhưng Chung vẫn học giỏi ở lớp đệ nhị và đệ nhất. Cậu đậu tú tài
toàn phần năm 1973. Sau này, Bác sĩ Chung kể lại:
“Khi nhìn lại quá khứ, tôi
thấy chương trình của Chúa thật huyền diệu. Nhờ học nhảy lớp đệ tam mà tôi
không bị nhập ngũ theo lệnh tổng động viên năm 1973, sau “Mùa hè đỏ lửa”. Nhờ
những cơn thịnh nộ của cha mà đến năm 39 tuổi, tôi vẫn còn độc thân để tự do
đáp lại tiếng gọi triệt để của Thiên Chúa.”
Tiếng gọi của cái Mỹ
Với bằng tú tài trong tay, con đường tương lai bắt đầu hé mở cho cậu thanh
niên 18 tuổi Nguyễn Viết Chung. Một ngày hè năm 1973, cậu tình cờ đọc bản tin
trên tờ Chính Luận: một giám mục người Pháp vừa qua đời tại trại cùi Di Linh. Vị
giám mục ấy là Jean Cassaigne, mà người Công giáo gọi với cái tên quen thuộc là
Đức Cha Sanh. Ở trang trong, tờ Chính Luận thuật lại vắn gọn cuộc đời của vị
giám mục tuyệt vời ấy. Từ thập niên 40, khi được gửi sang Việt Nam, linh mục trẻ
Cassaigne chọn một vùng truyền giáo miền núi của dân tộc thiểu số, khu Djiring
hẻo lánh (hiện nay là thị trấn Di Linh), cách trung tâm Đà Lạt 80 km. Qua những
lần viếng thăm mục vụ, cha nhận thấy rằng, những người phong thường bị loại ra
khỏi làng để sống dở chết dở trong những cánh rừng lân cận, vì thế cha đã thành
lập một ngôi làng cho họ và mời các nữ tu Nữ Tử Bác Ái lên chăm sóc.
Làng phong Kala ở Djiring suốt đời sẽ ở trong trái tim cha. Khi giáo phận
Việt Nam tách khỏi Cao Miên, cha Cassaigne được tấn phong làm giám mục tiên khởi
địa phận Sài Gòn. Năm 1960, khi Hàng Giáo phẩm Việt Nam được thành lập, ngài
trao Tòa Giám mục Sài Gòn lại cho Đức cha Simon Hòa Nguyễn Văn Hiền, rồi trở về
sống với anh em của mình là những người phong cùi ở làng Kala. Ngài yêu thương
người phong đến độ chia sẻ mọi sự với họ, và để yêu thương đến cùng, ngài chia
sẻ cả bệnh tật của họ để chết dần chết mòn trong thân thể đớn đau của một người
bị nhiễm bệnh.
Đọc tiểu sử của cố Giám mục Cassaigne, Chung không để ý đến chức vị của
ngài, mà chỉ thấy tấm lòng mênh mông của một mẫu người tuyệt đẹp. Tuổi 18 là tuổi
say mê các thần tượng và gửi gắm vào đấy những ước mơ thầm kín chực chắp cánh
bay cao. Cái đẹp trong cuộc sống của Đức Cha Sanh đã biến ngài thành thần tượng
của anh. Những thanh niên khác mơ đến tiền tài, danh vọng để tìm ra hạnh phúc,
còn Chung thì mong tìm hạnh phúc bằng cách sống một cuộc sống có ý nghĩa và chết
đi cho những người bất hạnh theo gương của thần tượng mình. Anh quyết định thi
vào y khoa: đấy là một nghề có thu nhập cao, giúp anh có thể đưa gia đình thoát
khỏi cảnh túng thiếu, nhưng đồng thời cũng là phương tiện để anh chăm sóc người
phong noi bước Đức Cha Sanh.
Tiếng gọi của cái Thiện
Sau một năm APM (Année Préparatoire Médicale = Dự Bị Y Khoa), Chung thấy ước
mơ của mình trở thành viển vông. Việc thi vào y khoa nằm ngoài tầm tay của những
người thuộc giai cấp cùng đinh như anh. Anh thấy rõ điều này khi nộp đơn thi
tuyển. Hầu hết các sinh viên thi vào trường đều là con cháu các bậc có chức có
quyền hay của các doanh nhân giàu có. Đa số đã tốt nghiệp từ một trường trung học
Pháp hay một trường công lập nổi danh. Xuất thân từ một gia đình mà người cha
là trung sĩ nhất, với kiến thức học được từ một trường trung học nhỏ bé, Chung
thấy mình toan làm chuyện đội đá vá trời. Gia đình anh nghĩ rằng anh chạy theo
một mục tiêu vượt quá sức mình nên khuyên anh bỏ ý định vào y khoa. Thế nhưng
anh vẫn kiên trì học ngày học đêm mà trong lòng cứ lo sợ miên man. Nhìn thấy mẹ
ngày ngày cầu khẩn những người đã khuất phù hộ cho gia đình, anh bỗng tin vào
những điều huyền diệu. Anh lên Lăng Ông Bà Chiểu, thắp nhang khấn vái với cụ Lê
văn Duyệt. Anh thầm mặc cả với cụ: “xin giúp con đậu vào y khoa. Để đáp lại,
con hứa, sau khi trở thành bác sĩ, sẽ phục vụ cho người cùi”. Thế rồi anh đậu
vào y khoa ngay lần thi đầu tiên, vào năm 1974. Đối với nhiều người khác
181/213 hẳn không có gì đáng nói, nhưng đối với bản thân anh và đối với gia
đình, đấy là ảo tưởng đã biến thành sự thật một cách thần kỳ.
Sau Hè năm 1974, Chung nhập học trường Đại học Y Khoa Sài Gòn. Trong những
ngày đầu ngỡ ngàng, anh bị thu hút ngay bởi một người Bỉ, giáo sư Marcel
Lichtenberger, dạy môn Mô Phôi học (histologie et embryologie). Ngoài kiến thức
uyên bác, giáo sư Lichtenberger còn tỏ ra tư cách một người thầy khiêm tốn và tận
tụy, cứ như thể ông muốn dậy cho học trò một cái gì đó vượt lên hẳn những kiến
thức y khoa. Chung tìm được lời giải đáp cho những thắc mắc của mình khi tất cả
các sinh viên năm thứ nhất, dù Công giáo hay không, đều được mời dự một thánh lễ
là Maccabée tại nhà thờ Jeanne d’Arc, để cầu nguyện hay tỏ lòng nhớ ơn những
người hiến xác cho sinh viên thực tập giải phẫu. Chung hiểu được vì sao giáo sư
Lichtenberger luôn toát ra một cái gì thanh thoát: linh mục cử hành thánh lễ
ngày hôm ấy chính là giáo sư khả kính của mình. Mãi sau này Chung mới biết rằng
giáo sư là một linh mục từng phục vụ ở Trung Hoa rất nhiều năm và gần gũi với
những người bệnh mà không ai cứu chữa. Mang con tim nhạy cảm trước các nỗi bất
hạnh, linh mục Lichtenberger, với kiến thức y khoa của một y công, đã phải mổ
hàng trăm ca mà không có một bằng cấp nào; để rồi năm 44 tuổi, ngài mới về Bỉ học
cho hết một chương trình bác sĩ trong vòng 4 năm, thay vì 8 năm như mọi ngành y
khoa khác. Tấm lòng của vị linh mục đã buộc Ngài trở thành một bác sĩ thực thụ
năm 48 tuổi. Chung chưa hề biết đến điều đó khi ngồi trên ghế Đại học Y khoa,
nhưng nhìn thấy cha Lichtenberger trong áo lễ màu tím xuất thần cầu nguyện trên
bàn thờ, Chung cảm nhận rằng thần tượng thứ hai của mình cũng đã đặt nền móng
cho mình như cuộc đời Đức Cha Cassaigne, chàng sinh viên Chung đã nghe được tiếng
gọi của cái thiện xuất phát từ hồn của vị linh mục bác sĩ tốt lành này.
Cái thiện ấy rất gần mà cũng rất xa với anh. Có lần giáo sư Lichtenberger
yêu cầu sinh viên điền vào tờ khai báo lý lịch trong đó có một ô ghi: nguyện vọng
tương lai của anh (chị). Chung điền vào mọi ô khác một cách nhanh chóng rồi ngồi
mãi trước ô “nguyện vọng tương lai” mà không biết phải viết làm sao. Đối với
các bạn khác thì không gì phải suy nghĩ. Khi bước vào y khoa, họ có những hoài
bão rõ ràng cho ngày mai: trở thành bác sĩ giỏi, theo học cao hơn ở nước ngoài,
có một nơi làm việc xứng đáng, tìm cơ hội để thăng tiến trong nghề nghiệp và xã
hội. Khi hết giờ, Chung nộp tờ khai mà ô nguyện vọng vẫn còn bỏ trống. Chung
nói: ”Tôi xấu hổ không dám thổ lộ cho giáo sư Lichtenberger biết rằng nguyện vọng
trong tương lai của mình là làm sao trở nên giống như giáo sư.”
Những tháng ngày ray rứt
Con đường học vấn tưởng chừng đã êm ả thì biến cố 1975 đến đảo lộn mọi sự.
Trường Y khoa là một trong những trương mở cửa sớm nhất sau ngày 30 tháng 4,
tuy nhiên đối với Chung điều kiện để học tập đã không còn. Cha anh là trung sĩ
nhất trong chế độ cũ nên không phải đi học tập cải tạo, nhưng người anh cả từng
là trung úy thì đang ở trong trại tập trung cải tạo. Chung không thể nào đang
tâm nhìn cha hằng ngày đạp chiếc xích lô vắng khách để nuôi nấng năm đứa con
đang lớn như thổi ở nhà. Anh thấy mình vừa có bổn phận chia sẻ gánh nặng với
cha vừa tiếp tục đi học. Hàng đêm, anh thay cha đạp xích lô từ 7 giờ đến 11 giờ
khuya. Sau một thời gian ngắn, anh không còn sức lực để vừa học ban ngày vừa đạp
xích lô ban đêm, nên đành phải chấp nhận để cha và em trai mình tìm kế sinh
nhai cho gia đình còn anh thì theo học mong tìm một lối thoát cho gia đình vào
những năm về sau. Ý thức được sự thiếu hụt trong gia đình, Chung không đòi hỏi
một điều gì cả. Đêm đêm anh xin vào trực bệnh viện cấp cứu. Có những đêm phải
thức trắng rồi sáng hôm sau không có một đồng dính túi để điểm tâm, anh vào lớp
học mà mắt cứ hoa lên vì buồn ngủ và vì đói.
“Phải trung thành với ý nguyện ban đầu, bằng bất cứ giá nào”... Với quyết
tâm ấy, chàng thanh niên Chung mỗi năm lên lớp cho đến 1978. Bước vào năm thứ
năm, mọi sinh viên phải theo một chuyên khoa. Các sinh viên trình lên một bản gồm
ba nguyện vọng. Nhớ ơn người mẹ đã cơ cực qua chín lần sinh con, mà mỗi lần là
một biến cố thập tử nhất sinh, Chung chọn ngành “sản khoa” ở nguyện vọng 1.
Trong niên khoá ấy, Giáo sư Đạt, một bác sĩ chuyên về nội thần kinh, đã làm cho
anh thích thú môn học này, vì thế anh ghi “nội thần kinh” ở nguyện vọng 2, còn
nguyện vọng 3 anh ghi “da liễu” để có thể trả lời với cụ Lê Văn Duyệt rằng mình
không thất hứa. Ngày nghe tuyên bố về chuyên khoa của mình, Chung hụt hẫng. Anh
bị phân bổ vào chuyên khoa “ký sinh trùng sốt rét”. Anh chẳng vào được trong
khoa nào trong ba nguyện vọng anh mong ước. Suốt hai năm còn lại tại trường Y
khoa, anh sống với tâm trạng dằn vặt của một người thất tín thất trung. Anh tự
trách: “Vì mình không trung thành với lời hứa phục vụ người cùi, nên Đấng bề
trên chuyển mình sang khoa ký sinh trùng để xử phạt về tội bội tín.”
Trả món nợ lương tâm
Anh ra trường năm 1980 và được phân công đến phân viện sốt rét TP Sài Gòn.
Quá chán nản với công tác này, anh bỏ công sở mà về gia đình hành nghề chui, với
tư cách là một bác sĩ đến từng gia đình bệnh nhân để chữa trị. Ít ra anh cũng
thực hiện được một trong hai điều mình tự hứa trước kia. Tuy không có phòng mạch
như bao bác sĩ khác, nhưng được cái là anh dễ mến, mát tay và nhận thù lao
tương đối thấp, nên thu nhập tạm đủ để giúp gia đình thoát khỏi cảnh túng thiếu
trường kỳ. Cha anh ngưng đạp xích lô, các anh em có phương tiện học hành hay thực
hiện những ước mơ của mình. Thế nhưng tự đáy lòng, tiếng trách móc của lương
tâm không ngừng dày xéo anh: “mày là một tên thất trung thất tín!” Năm 1984,
sau khi cưới vợ gả chồng cho các em, cũng như giúp họ ổn định cuộc sống, Chung
quyết định trả cho xong món nợ lương tâm bằng cách bỏ lại mọi sự mà đi chăm sóc
cho bệnh nhân cùi. Ý nghĩ đầu tiên là phải phục vụ tại Di Linh, nơi mà thần tượng
thứ nhất của anh đã thành lập, đã sống, đã chết và hiện nay mộ phần Ngài còn nằm
tại đấy, trơ gan cùng tuế nguyệt như một chứng tích tình yêu. Anh lên trại
phong Di Linh xin nữ tu phụ trách cho phép anh làm việc ở đấy. Các nữ tu rất
trân trọng ý định của anh nhưng không thể đáp ứng yêu cầu, vì trại phong lúc bấy
giờ đã trở thành một cơ sở của nhà nước mà các nữ tu không có quyền tuyển dụng
nhân viên. Anh trở về trường Y khoa xin chuyển lên Di Linh, về mặt hành chính
nhà trường không thể bổ nhiệm anh lên Sở Y tế Lâm Đồng. Cầm giấy tờ trong tay,
anh trình diện với vị trưởng phòng tổ chức y tế và nói lên nguyện vọng được về
trại phong Di Linh. Bà trưởng phòng ngạc nhiên hỏi:
-
Anh có điên không? Hay là anh bị cùi?
-
Nếu
tôi cùi thì bà đã thấy rồi. Còn có điên hay không thì tôi không biết, nhưng điều
tôi biết là tôi mong muốn được phục vụ những người cùi.
-
Anh sẽ nhận việc tại trạm sốt rét, vì
chuyên khoa của anh là “ký sinh trùng sốt rét” chứ không phải là “da liễu.”
-
Tôi
lên đây vì muốn phục vụ tại trại phong Di Linh. Nếu bà không cho phép thì tôi về
lại TP Sài Gòn chứ không làm việc bất cứ nơi nào khác.
Về lại Sài Gòn, anh tìm cách thực hiện lời hứa cho bằng được. Không thể nào
phục vụ người phong nếu thiếu chuyên khoa da liễu, nên anh xin một nơi làm gần
Sài Gòn để có cơ hội bổ túc về chuyên khoa với điều kiện sau này chăm sóc người
phong của thành phố, nghĩa là làm việc tại trại phong Bến sắn.
Tiếng gọi của cái Chân
Năm 1992 anh xuống Bến sắn để nhận nhiệm sở mới. Thế là mãn nguyện, ước mơ
tuổi thanh niên đã trở thành hiện thực. Từ sáng thứ Hai đến trưa thứ Sáu, anh
làm việc tại trại phong Bến Sắn để bước cùng nhịp với thần tượng hầu trung
thành với lời hứa của mình. Từ tối thứ Sáu đến chiều Chúa Nhật, anh về Sài Gòn
làm bác sĩ tại gia để tìm một ít thu nhập cho cha mẹ sống qua ngày. Cuộc đời
anh dường như đã tới đích, anh không còn ước mơ gì nữa.
Thế nhưng anh lại phải đối diện với những vấn đề mới của cuộc sống. Tại trại
phong, anh thấy mình sống ở giữa hai nhóm người hoàn toàn trái ngược trong thái
độ hành xử. Nhóm thứ nhất gồm những người thiện chí, mà đa số là Nữ Tử Bác Ái,
chỉ sống tất cả cho bệnh nhân; nhóm thứ hai gồm một số người nghĩ đến tư lợi của
mình nhiều hơn là lợi ích người bệnh. Với tư cách là trưởng phòng y vụ, bác sĩ
Chung được nhóm thứ hai săn đón để lôi kéo về phe mình, nhưng anh lại bị lôi cuốn
bởi nhóm thứ nhất, vì qua họ anh hầu như chạm được cái Chân tiềm tàng nơi những
người mà anh đặt làm khuôn mẫu cho cuộc đời mình: Giám Mục Cassaigne và Linh mục
Lichtenberger. Chính các nữ tu này đã khiến cuộc đời anh dứt khoát rẽ qua một
bước ngoặt triệt để.
Anh còn nhớ sự kiện sau đây, có lần hai anh em người Pháp đều là linh mục
đưa một bác sĩ cũng quốc tịch Pháp đến cưa chân cho một số bệnh nhân tại trại
phong Bến sắn. Một người có vết thương bị nhiễm trùng đã lớn tiếng với Chung:
“Ông dùng tôi làm con vật thí nghiệm?” Anh quá tức giận đã nặng lời với bệnh
nhân ấy. Một sơ cao niên đã chứng kiến cảnh này mà không nói lời nào. Vài ngày
sau, khi mọi chuyện đã êm, sơ nhẹ nhàng bảo anh:
-
Bác
sĩ Chung à, bệnh nhân đau nhức bác sĩ có đau đâu! Anh ấy bị cưa chân chứ bác sĩ
có bị cưa chân đâu! Những gì bác sĩ làm cho họ không đền bù được nỗi đau cả đời
của họ đâu!
Anh bỗng thấy nơi sơ cao niên ấy một sức mạnh tinh thần họa hiếm. Ai đã
giúp cho sơ ấy có một lòng quảng đại thanh thản như thế? Hẳn là Chúa của sơ. Nếu
Chúa của sơ có một sức mạnh như thế, thì Ngài cũng phải là Chúa của anh.
Ý nghĩ rằng Chúa của các Nữ Tử Bác Ái cũng có thể là Chúa của mình vừa làm
cho anh vui, vừa làm cho anh e ngại. Lời dặn dò của mẹ, từ thuở anh còn là cậu
bé tiểu học cư ngụ trong xóm đạo, cứ văng vẳng bên tai: “Chung không được đi đạo
nhé, người Công giáo kỳ cục lắm, cứ dụ người ta theo đạo, đạo ai nấy giữ chứ!”
Quả là những người Công giáo ấy kỳ cục. Nhất là nữ tu Công giáo. Nhưng kỳ cục
không phải vì họ dụ anh theo đạo, mà vì họ sống trên đời nhưng không bao giờ
nghĩ đến bản thân mình. Một trong các nữ tu mà anh có cơ may cộng tác một thời
gian ngắn là Sơ Maria Phạm Thị Ngọc Loan, được mọi người trong trại gọi cái tên
thân thương là Dì Hai. Khi bác sĩ Chung về trại phong, Dì Hai đang ở đấy với
hai tư cách: Phó Giám Đốc trại phong và sơ phục vụ (soeur servante: dì bề trên)
cộng đoàn Nữ Tử Bác Ái Bến Sắn. Anh nghe kể lại Dì Hai về đây năm 1976, lúc mà
chế độ chăm sóc các bệnh nhân phong hầu như không có gì, trong khi những nhân
viên mới đổi tới lấy hết cái này tới cái nọ trong trại về làm của riêng. Dì Hai
phải đứng ra bảo vệ cho bệnh nhân và cỡi chiếc gắn máy tồi tàn chạy bằng xăng
pha dầu lửa về TP Sài Gòn mỗi tuần nhiều lần hầu tìm nguồn lương thực cho họ, đồng
thời kêu gọi và đưa về Bến sắn những bệnh nhân bỏ trại lên sống vất va vất vưởng
trên vỉa hè Sài Gòn. Tim của dì đập theo từng nhịp của con tim bệnh nhân trong
vòng 17 năm trường, để rồi ngưng lại khi người ta phát hiện bệnh ung thư trong
hình hài của dì. Dì sợ rằng cho biết sớm thì nhà dòng sẽ cấm tiếp tục phục vụ bệnh
nhân phong, dì đã im lặng hy sinh tất cả vì mọi người.
Hôm ấy anh sắp đi công tác từ TP Sài Gòn. Biết rằng Dì Hai đang ở vào những
giờ phút cuối đời, anh ghé lại 36 Tú Xương để chào từ biệt. Anh nói:
“Dì Hai à, chút xíu nữa đây, con với bác sĩ Quang và chị Bích Vân sẽ lên trại
phong Di Linh mổ mắt cho bệnh nhân trên ấy.”
Nghe anh nói, đôi mắt héo hắt của Dì Hai thoáng có nét cười. Anh ra ngoài
chờ xe, nhưng xe đến chậm, nghĩ rằng đây là lần cuối cùng còn gặp mặt Dì Hai,
nên anh luyến tiếc trở lại một vài phút cạnh Dì. Nghe tiếng chân anh vào, Dì
hai hé mở mắt, nhìn thấy anh, mấp máy đôi môi để nói lên một điều gì. Sơ chăm
sóc ghé tai vào miệng dì lắng nghe, rồi lặp lại cho anh: “Chung, Dì Hai hỏi, tại
sao chưa đi?”. Thế đấy! Đến giây phút cuối của cuộc đời, Dì Hai vẫn không nghĩ
đến mình, mà chỉ nghĩ đến bệnh nhân. Không chỉ là bệnh nhân tại Bến sắn mà còn
là bệnh nhân tại Di Linh nữa.
Một bước ngoặt triệt để
Chung! Tại sao chưa đi? Vâng, đã đến lúc bác sĩ Chung quyết định đi đạo, đi
theo con đường mà Dì Hai Loan đã từng đi. Sau đám tang của Dì Hai, anh đến gặp
Dì Camille Hạnh, Giám tỉnh dòng Nữ Tử Bác Ái, và nói lên ý nguyện đi tu để sống
trọn vẹn cho bệnh nhân giống như các dì. Dì Hạnh thông cảm từ thâm sâu mong ước
của anh, vì dì cũng là người chịu phép rửa ở tuổi trưởng thành trước khi dâng
hiến trọn đời mình cho Chúa với tư cách nữ tu. Trong thời gian này, cha Bề Trên
Tổng Quyền Tu hội Truyền Giáo Thánh Vinh Sơn đang có mặt tại Sài Gòn (Thánh
Vinh Sơn Phaolô cũng là vị sáng lập dòng Nữ Tử Bác Ái), nên Dì Hạnh đã đứng ra
bảo lãnh và xin nhận anh vào dòng Truyền giáo. Cha Tổng Quyền chấp thuận nhưng
bảo rằng chỉ nhận vào dòng sau khi học đạo và chịu bí tích Thánh Tẩy. Lúc bấy
giờ anh chưa có khái niệm rõ ràng về Thiên Chúa.
Điều duy nhất anh biết: Ngài phải là một nguồn Chân - Thiện - Mỹ, (Thật - Tốt
- Đẹp) bởi vì Ngài là Thiên Chúa của những người sống cuộc sống chân thật, tốt
lành và tuyệt đẹp. Vì thế anh không do dự mảy may: Chúa của Đức Cha Cassaigne,
của Cha Lichtenberger, của Dì Hai Loan, sẽ là Chúa của anh. Chỉ có một vướng mắc
nhỏ: cha mẹ anh nghĩ sao? Anh trình với song thân và hai vị bảo: “Con đã lớn
nên toàn quyền chọn con đường có ý nghĩa nhất cho đời mình; các em cũng đã lớn,
chúng cũng có thể chăm sóc cha mẹ, con đừng lo.”
Ngày 28-08-1993, Bác sĩ Chung đến Dòng Tên gặp Cha Hoàng Văn Đạt[1] xin học giáo lý tân tòng. Cha vui mừng bảo anh hay,
ngày hôm đó Giáo Hội mừng lễ Thánh Âu Tinh, một người đã chịu phép rửa khi đang
là một giáo sư tại Roma, để rồi trở thành linh mục và một giám mục thánh thiện
và uyên bác tại Hippone, một thành phố Châu Phi. Để đánh dấu cho bước ngoặt
đáng ghi nhớ này, anh chọn Âu Tinh làm quan thầy mình. Âu Tinh Nguyễn Viết
Chung lãnh nhận bí tích Thanh Tẩy từ tay Cha Chính xứ Bến Sắn, linh mục Trần Thế
Thuận, ngày 15-5-1994, tại nhà nguyện trại phong Bến sắn.
Ngày 15-9-1994, anh trở lên Đà Lạt, nhưng lần này không phải đến Sở Y tế
xin phục vụ người phong, mà đến 40 Trần Phú, trụ sở Dòng Truyền Giáo Vinh Sơn,
để khởi sự tập luyện cuộc sống quên mình trọn vẹn.
Muốn tìm hiểu không gây trở ngại cho tương lai của bác sĩ Chung, nếu ơn gọi
linh mục không phải là con đường Chúa dành cho anh, Bề Trên Tu Hội Truyền Giáo
tại Việt Nam đề nghị anh làm quen với nếp sống tu tại Túc Trưng. Suốt một năm
ròng, mỗi tháng bác sĩ Chung làm việc ba tuần liên tục ở Bến sắn và dành trọn
tuần thứ tư để sống tại nhà Dòng Túc Trưng. Trong thời gian thử thách này, anh
đã chu toàn đúng mức hai vai trò trái ngược của mình: bác sĩ trưởng tại trại
phong và em út trong cộng đoàn Vinh Sơn. Sau một năm, đã đến lúc anh bỏ vai trưởng
để chỉ còn sống trong vai út. Anh xin nghỉ việc tại Trại phong Bến Sắn và chính
thức gia nhập Tu hội Truyền Giáo ngày 10-6-1995.
Thời gian nhà tập hẳn không dễ dàng gì cho một người đã công thành danh toại,
rồi một sớm một chiều trở nên “lính mới” phải vâng phục mọi người, trong số đó
có những thầy bằng nửa số tuổi của anh. Thế nhưng bác sĩ Chung biểu hiện tư
cách một con người đã thực sự theo Chúa Kitô. Các thầy cùng thời với anh chân
thành thổ lộ: “Anh Chung luôn có mẫu gương khiêm nhường cho tất cả chúng em.”
Nhà dòng cho phép tu sĩ Chung học dồn chương trình triết học trong vòng một
năm, để rồi khởi sự 4 năm thần học kể từ năm 1997. Ngày 25-7-2003, Giáo Hội
trao thừa tác vụ cho thầy Âu Tinh Nguyễn Viết Chung, qua lễ đặt tay của Đức
Giám Mục Giuse Vũ Duy Thống, tại nhà thờ Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp, TP Sài Gòn.
Hành trình của một cuộc đời
Hành trình của một cậu bé sợ hãi trong xó nhà đã kết thúc nơi bàn thánh. Một
người khởi hành trong cái nghèo khó bị áp đặt, đi cả một dòng đời, rồi đến đích
trong sự nghèo khó tự nguyện. Một người đi từ nỗi bất hạnh vì phải nghèo đến niềm
hạnh phúc được sống. Một người suốt đời mang trong mình tiếng gọi: phải trung
thành! Và nhờ lòng trung thành ấy, mà linh mục Nguyễn Viết Chung được nhận Tin
Mừng Cứu Độ, không phải qua những lời rao giảng, mà qua hành động cụ thể của những
con người, để rồi từng bước nghe được cái Mỹ (Đẹp), thấy được cái Thiện (Tốt),
chạm được cái Chân (Thật) xuất phát từ Chúa Kitô, Đấng Tình Yêu muôn đời tận hiến.
“Nếu tôi có một lời để nhắn nhủ với người trẻ hôm
nay, thì tôi chỉ nói với họ điều này: khi bạn phải sống hoàn cảnh của một người
nghèo, bạn cần nỗ lực ban đầu để vượt qua, nhưng hãy nhớ rằng mình luôn có những
vấp váp. Rồi một ngày nào đó bạn sẽ thấy rằng tiền không phải là trên hết. Điều
làm cho cuộc đời mình có ý nghĩa, ấy là phải trung thành. Tôi đã từng bất
trung. Và phải thông qua những kinh nghiệm chua chát.”
Tôi còn nhớ cha Tổng quyền chấp thuận cho tôi nhập Dòng Vinh Sơn là ngày thứ
Bảy. Qua hôm sau, ngày Chúa Nhật, các cha dòng Camillo mở diễn đàn kêu gọi các
thanh niên dâng hiến đời mình với tư cách là bác sĩ linh mục. Đây là đặc sủng của
dòng ấy, và lời kêu gọi này rất phù hợp với tôi. Thế nhưng tôi đã tránh không
tham dự, vì muốn trung thành với Tu Hội Vinh Sơn. Tôi đã biết thế nào là cái giá
phải trả cho sự bất trung rồi.”
Con đường của bác sĩ Chung tưởng chừng như đã kết thúc tại cung thánh khi
nhận chức vụ linh mục. Tuy nhiên, từ nơi ấy lại khởi đầu cho một hành trình mới.
Bác sĩ Chung trở lại với những bệnh nhân AIDS ở Mai Hòa, với những người nghiện
ma túy ở nhiều tổ chức và trung tâm khác nhau nhưng lần này, qua việc chữa trị
thân xác, linh mục Chung còn đem lại cho họ bình an tâm hồn, một niềm bình an
xuất phát từ Thiên Chúa của những người mình ngưỡng mộ và cảm phục, và giờ đây
đã là Thiên Chúa của mình, với chức linh mục, bác sĩ Chung làm chứng cho Tình
Yêu Thiên Chúa không chỉ bằng nghiệp vụ và tác vụ, mà còn bằng cả đời sống của
bản thân mình.
Nhìn lại con đường đã qua, bác sĩ Chung thường xuyên lập lại phương châm
mình đã chọn ngày thụ phong:
“Tạ ơn Chúa, Chúa nhân từ,
muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương.”
Linh mục Chung không ngừng trung thành cam kết:
“Điều khấn hứa cùng Ngài con xin giữ trọn.”
Thiên Chúa đã đến
trong cuộc đời Nguyễn Viết Chung bằng những bước đi nhè nhẹ. Nhưng mỗi lần Ngài
đến là Ngài để lại dấu ấn sâu sắc trong tâm hồn biết lắng nghe. Giữa bao nhiêu
thần tượng trên thế gian, Nguyễn Viết Chung biết chắt lọc một vài khuôn mẫu định
hướng cho cuộc đời mình: Đức Cha Cassaigne, Cha Lichtenberger, Dì Hai Loan ...
đó là chưa kể đến nhiều người khác, trong đó có thân mẫu của mình, một người mẹ
âm thầm chịu đựng gian khổ cho tới khi mù lòa.
Giữa các khuôn mặt ấy,
có một nhân vật giống như Nguyễn Viết Chung: Linh mục bác sĩ Marcel
Lichtenberger. Thế nhưng con đường Chúa dẫn hai vị đi thì hoàn toàn ngược chiều
nhau. Năm 25 tuổi, Cha Lichtenberger bị tình yêu Thiên Chúa thúc bách phải đến
với con người bất hạnh Trung Hoa, và trước những thương tích Chúa Kitô thể hiện
trên hình hài các bệnh nhân, cha đã trở về ngồi lại trên ghế nhà trường để rồi
trở thành bác sĩ năm 48 tuổi. Ngược lại, Nguyễn Viết Chung tốt nghiệp bác sĩ
năm 25 tuổi, rồi vì muốn chia sẻ trọn vẹn sự khốn khổ với bệnh nhân phong cùi
nên cuối cùng đã gặp Chúa Kitô và trở thành linh mục của Chúa vào tuổi 48 để phục
vụ những người bất hạnh, điều đã khiến bác sĩ linh mục Lichtenberger từ bỏ mọi
sự, hiến thân suốt đời. Một linh mục trở thành bác sĩ đã là đèn soi dẫn đường
cho một bác sĩ trở thành linh mục. Hành trình của hai linh mục bác sĩ này bộc lộ
cho chúng ta một chân lý: ai đến với Thiên Chúa một cách chân thật, trung thành
thì sẽ liên đới với những con người cùng khổ một cách chân thật và trung thành,
rồi từ đó sẽ gặp lại Thiên Chúa từ nơi thâm sâu của lòng mình.
(trích Hành trình Đức Tin)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét