NĂM ĐỨC TIN:
LỜI MỜI GỌI TRUYỀN GIÁO
LỜI MỜI GỌI TRUYỀN GIÁO
(Đức Cha Giuse Đinh Đức Đạo - GM Phụ Tá GP Xuân Lộc)
I. NĂM ĐỨC TIN VÀ VIỆC
TRUYỀN GIÁO
1. Lý do việc cử
hành Năm Đức Tin
Ngay từ những số đầu của Tự sắc
“Porta Fidei”, Đức Thánh Cha đã nói đến lý do của việc cử hành Năm Đức Tin. Đó
là hoàn cảnh của Giáo Hội đang trải qua một cuộc khủng hoảng đức tin sâu rộng
(x. PF 2-3).
Một cái nhìn tổng quát cho thấy
thế giới hôm nay đang trải qua một cuộc chuyển mình vô cùng rộng lớn và hết sức
sâu đậm, làm rúng động các cơ cấu và giá trị văn hóa, xã hội và ngay cả cơ cấu
và giá trị tôn giáo. Chỉ nghĩ đến một số hiện tượng đang được cổ võ trên thế giới
hôm nay, chẳng hạn, hiện tượng thế tục hóa đang lan tràn khắp nơi, ngay cả
trong hàng ngũ các linh mục tu sĩ, theo đó, chính cuộc sống hay nhiều khía cạnh
quan trọng của cuộc sống, không còn được nhìn trong mối tương quan với Thiên
Chúa, việc thay đổi ý nghĩa và nội dung của hôn nhân và gia đình, việc xóa bỏ sự
khác biệt về phái tính, trào lưu coi thường và phá hoại sự sống, việc đối xử với
con người như một đồ vật nằm trong tay một người, một nhóm người nhân danh khoa
học. Do đó, thế giới hôm nay đang đánh mất nhiều giá trị căn bản nhất và nền tảng
nhất của cuộc đời.
Theo Tự sắc “Porta Fidei”, “các
Kitô hữu quan tâm nhiều hơn tới những hậu quả về phương diện xã hội, văn hóa và
chính trị của sự dấn thân, cứ tưởng rằng Đức Tin là tiền đề hiển nhiên của đời
sống xã hội. Nhưng thực tế cho thấy tiền đề ấy không chỉ không còn được coi là
hiển nhiên nữa mà nhiều khi còn bị phủ nhận. Trong khi ngày xưa, người ta có thể
nhận thấy được một môi trường văn hóa thống nhất, nhắc đến nội dung Đức Tin và
những giá trị chịu ảnh hưởng của Đức Tin, và được nhiều người chấp nhận, ngày
nay, nơi nhiều bộ phận của xã hội có lẽ không còn như vậy nữa, do cuộc khủng hoảng
sâu đậm về đức Tin đã ảnh hưởng tới nhiều người.” (PF 2).
2. Mục đích của
Năm Đức Tin
Để trả lời cho tình trạng khủng
hoảng Đức Tin trong Giáo Hội, Đức Thánh Cha Bênêdictô XVI đã cho cử
hành Năm Đức Tin nhắm mục đích canh tân đức tin của mọi thành phần
trong Giáo Hội. Đức Thánh Cha nói: “Chúng ta không thể để cho ánh sáng bị
che lấp và muối bị lạt” (PF 3). “Cần phải khám phá lại hành trình Đức Tin để
làm cho sáng tỏ niềm vui và lòng hăng say, nhiệt tình vì gặp được Chúa Kitô.”
(PF 2).
Công việc canh tân Đức Tin có những
yếu tố sau đây:
a) Cần phải có một cuộc
trở lại chân thật với Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế duy nhất của nhân loại (x. PF
6) để tìm lại được niềm vui và lòng hứng khởi vì được biết Chúa và gặp Chúa (x.
PF 2).
b) Cần phải tăng cường
việc suy tư để xác tín về Đức Tin, qua việc yêu thích lắng nghe và nuôi dưỡng
mình bằng Lời Chúa (x. PF 3), qua việc học hỏi các văn kiện của Công đồng
Vaticanô II (x. PF 5) và Sách Giáo Lý Giáo Hội Công Giáo (x. PF 11).
c) Tuyên xưng và
cử hành Đức Tin tại các nhà thờ cũng như tại tư gia.
d) Sống Đức Tin, tức
là đưa Đức Tin vào cuộc sống theo mẫu gương của những chứng nhân của Đức Tin, bắt
đầu từ chính Đức Mẹ, qua các Thánh Tông Đồ, các tín hữu đầu tiên, các Thánh Tử
Đạo, những tín hữu, nam cũng như nữ, đã dâng hiến cuộc sống trong đời sống
thánh hiến, các tín hữu đã sống Đức Tin trong gia đình, nghề nghiệp… (x. PF 13)
e) Hăng say truyền giảng
Tin Mừng (PF 7): truyền đạt Đức Tin cho các thế hệ trẻ và cho anh chị em
lương dân.
Xem như thế thì việc truyền giáo
không những là một yếu tố của Năm Đức Tin mà còn là điểm tới của tất cả hành
trình canh tân Đức Tin: Canh tân Đức Tin để hăng say truyền đạt Đức Tin cho những
thế hệ trẻ và cho anh chị em lương dân. Do đó, trong khi chúng ta nỗ lực canh
tân Đức Tin, Năm Đức Tin cũng mời gọi chúng ta canh tân tinh thần truyền giáo để
ra đi chia sẻ niềm vui Đức Tin với anh chị em lương dân.
II. “TRUYỀN
GIÁO”: Ý NGHĨA VÀ THỰC TRẠNG
1. Ý nghĩa
Việc đầu tiên chúng ta cần phải
làm là nhắc lại và xác định cho rõ ý nghĩa và mục đích của việc truyền giáo.
Sau công đồng Vaticanô II, có rất nhiều suy tư và ý kiến về việc truyền giáo.
Điều này nói lên sự quan trọng của việc truyền giáo vì chiếm được sự quan tâm của
nhiều người và cũng nói lên sự phong phú của công việc vì các suy tư nói đến rất
nhiều khía cạnh của việc truyền giáo. Tuy nhiên, cũng chính trong bối cảnh này,
việc truyền giáo đã gặp rất nhiều khó khăn vì nhiều người nói đến việc truyền
giáo, nhưng mỗi người lại gán cho việc truyền giáo một ý nghĩa khác nhau hay
thu hẹp hoặc đồng hóa việc truyền giáo với một khía cạnh của nó. Chẳng hạn, người
thì đồng hóa việc truyền giáo với việc phục vụ người nghèo, người khác thì đồng
hóa việc truyền giáo với việc đối thoại liên tôn hoặc thu hẹp công việc truyền
giáo vào công tác hội nhập văn hóa. Do đó, sự phong phú đã trở thành sự hỗn độn
và thoái hóa. Chính vì lý do nói trên, cần phải xác định lại ý nghĩa và mục
đích của công việc truyền giáo.
Theo hai văn kiện căn bản về việc
truyền giáo của Giáo Hội là sắc lệnh “Tới muôn dân” của công đồng Vaticanô II
và thông điệp “Sứ mệnh Đấng Cứu Thế” của ĐTC Chân Phước Gioan Phaolô II, việc
truyền giáo là công tác tông đồ hướng đến anh chị em chưa biết và chưa chấp nhận
Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế, mà chúng ta thường gọi đơn giản là anh chị em lương
dân. Mục đích cụ thể là rao giảng và làm chứng cho Chúa Giêsu và Tin Mừng
của Ngài để người ta biết và tin theo Chúa Giêsu và sau đó, qui tụ tất cả thành
những cộng đoàn của những người tin vào Chúa. Đó cũng chính là thiết lập các
giáo hội địa phương và củng cố để trở thành những giáo hội địa phương trưởng
thành (xem sắc lệnh “Tới muôn dân”, số 6, thông điệp “Sứ mệnh Đấng Cứu Thế”, số
33-34).
Vì vậy, tiêu chuẩn để xác định việc
truyền giáo không phải là tiêu chuẩn kinh tế (người nghèo hay giầu), xã hội
(người bị bỏ rơi, bị áp bức), chủng tộc (sắc dân), nhưng là tiêu chuẩn Đức Tin,
tức là người chưa tin và chưa chấp nhận Chúa Giêsu là Đấng Cứu Độ. Người đó có
thể giầu hay nghèo, có thể là người bị bỏ rơi, bị áp bức, nhưng cũng có thể là
người quyền thế, có thể là người Tầu, Ấn Độ, hoặc là người Phi châu, có thể là
người Kinh hay người dân tộc… Vấn đề căn bản là họ chưa biết Chúa Giêsu là Đấng
Cứu Thế.
2. Thực trạng truyền
giáo theo số thống kê
Tình trạng truyền giáo hết sức phức
tạp, nhưng chỉ nhìn vào một số thống kê cũng tạm đủ cho chứng ta một cái nhìn.
a) Thống
kê chung các tôn giáo trên thế giới[1]
Dân số
|
2000
|
giữa 2012
|
2025
|
2000 - 2025
|
Dân
số toàn cầu
|
6,085,572,000
|
7,052,132,000
|
8,002,979,000
|
1,917,407,000
|
Dân
số kitô
|
2,013,132,000
|
2,325,507,000
|
2,727,153,000
|
714,021,000
|
Dân
số không kitô
|
4,072,440,000
|
4,726,625,000
|
5,275,826,000
|
1,203,386,000
|
Công
giáo
|
1,052,924,000
|
1,187,637,000
|
1,323,199,000
|
270,275,000
|
Hồi
giáo
|
1,226,046,000
|
1,583,783,000
|
1,951,389,000
|
725,343,000
|
Ấn
giáo
|
798,610,000
|
969,602,000
|
1,108,202,000
|
309 592,000
|
Không
tôn giáo
|
764,483,000
|
661,288,000
|
636,826,000
|
-127,657,000
|
Tôn
giáo trung quốc
|
367,967,000
|
467,216,000
|
479,302,000
|
111,335,000
|
Phật
giáo
|
366,625,000
|
473,818,000
|
546,590,000
|
179,965,000
|
Đạo
truyền thống
|
241,554,000
|
264,552,000
|
256,530,000
|
14,976,000
|
Vô
thần
|
145,375,000
|
136,642,000
|
132,342,000
|
-13,033,000
|
Tôn
giáo mới
|
101,044,000
|
63,220,000
|
64,108,000
|
-36,936,000
|
Đạo
Sikh[2]
|
20,484,000
|
24,585,000
|
29,326,000
|
8,842,000
|
Do
thái giáo
|
14,035,000
|
14,921,000
|
16,004,000
|
1,969,000
|
b) Thống
kê Giáo Hội Công Giáo[3]
DÂN SỐ THẾ GIỚI –
TÍN HỮU CÔNG GIÁO
Châu lục
|
Dân số
|
Công giáo
|
Tỷ lệ
|
Châu
Phi
|
993.400.000
|
179.480.000
|
18,07 %
|
Châu
Mỹ
|
921.824.000
|
582.012.000
|
63,14 %
|
Châu
Á
|
4.115.586.000
|
125.860.000
|
3,06 %
|
Châu
Âu
|
710.959.000
|
284.030.000
|
39,95 %
|
Châu
Đại Dương
|
35.830.000
|
9.283.000
|
25,93 %
|
TC
|
6.777.599.000
|
1.180.665.000
|
17,42%
|
LINH MỤC
Châu lục
|
TC
Linh mục |
Linh mục
Giáo phận |
Linh mục
Dòng |
Châu
Phi
|
36.766
|
24.863
|
11.903
|
Châu
Mỹ
|
122.567
|
81.411
|
41.156
|
Châu
Á
|
55.441
|
32.517
|
22.924
|
Châu
Âu
|
191.055
|
133.997
|
57.058
|
Châu
Đại Dương
|
4.764
|
2.754
|
2.010
|
TC
|
410.593
|
275.542
|
135.051
|
DÂN SỐ / TÍN HỮU
CÔNG GIÁO CHO MỘT LINH MỤC
Châu lục
|
Dân số/linh mục
|
Tín hữu/linh mục
|
Châu
Phi
|
27.022
|
4.882
|
Châu
Mỹ
|
7.521
|
4.749
|
Châu
Á
|
49.402
|
2.270
|
Châu
Âu
|
3.721
|
1.487
|
Châu
Đại Dương
|
7.521
|
1.948
|
TC
|
13.154
|
2.876
|
TU SĨ NAM NỮ
Châu lục
|
Thầy trợ sĩ
|
Nữ tu
|
Châu
Phi
|
8.310
|
64.980
|
Châu
Mỹ
|
16.792
|
198.376
|
Châu
Á
|
10.050
|
162.261
|
Châu
Âu
|
17.652
|
294.503
|
Châu
Đại Dương
|
1.425
|
9.251
|
TC
|
54.229
|
729.371
|
GIÁO DÂN TRUYỀN
GIÁO VÀ GIÁO LÝ VIÊN
Châu lục
|
Giáo Dân Truyền Giáo
|
Giáo Lý Viên
|
Châu
Phi
|
5.237
|
426.788
|
Châu
Mỹ
|
286.063
|
1.842.449
|
Châu
Á
|
23.545
|
314.907
|
Châu
Âu
|
5.091
|
551.451
|
Châu
Đại Dương
|
290
|
15.482
|
TC
|
320.226
|
3.151.077
|
III. TINH THẦN VÀ DẤN
THÂN TRUYỀN GIÁO HIỆN NAY TẠI VIỆT NAM
1. Một số ý kiến
về dấn thân truyền giáo của Giáo Hội tại Việt Nam
a) Nhận
xét của trưởng đoàn phụ trách tôn giáo tỉnh Hòa Bình: Giáo Hội Công Giáo không
truyền giáo.
b) Những
bài viết trên mạng: Có nhiều bài viết về việc truyền giáo tại Việt Nam được
đăng trên mạng và một trong những bài viết đó là bài của phó tế FX Trần Kim Ngọc,
OP (VietCatholic News 20/08/2010) có đề tựa: “Thiếu lửa truyền giáo tại Việt
Nam?” Đề tài là một câu hỏi, nhưng trong thực chất nội dung là một lời xác quyết.
Tác giả đưa ra 5 lý do vì sao thiếu lửa truyền giáo tại Việt Nam: 1) Thiếu nhân
lực truyền giáo; 2) Thiếu đào tạo; 3) Thiếu tổ chức; 4) Thiếu mục tiêu; 5) Thiếu
cộng tác.
2. Một số sự kiện
a) Số thống kê
Năm
|
1970
|
1990
|
1993
|
2004
|
2010
|
Dân số
|
31.993.143
|
63.286.000
|
70.257.700
|
82.320.147
|
86.927.700
|
Công giáo
|
2.679.776
|
4.341.976
|
4.641.677
|
5.667.428
|
6.187.486
|
Tỷ lệ
|
8,37%
|
6,86%
|
6,60%
|
6,88%
|
7,11%
|
b) Nhiều người còn xa
lạ đối với Giáo Hội và các biểu tượng của Giáo Hội
Tại Việt Nam, người công giáo thường
sinh hoạt rất sầm uất trong những giáo xứ đông đảo và nếu cứ ở trong các giáo xứ
đó, xem ra dưới bầu trời này chỉ có người công giáo. Nhưng nếu chúng ta ra
ngoài môi trường giáo xứ hay các cơ cấu của Giáo Hội, còn vô vàn người chẳng biết
các linh mục, tu sĩ là ai. Các biểu tượng của mình chẳng có ý nghĩa gì với họ.
Mình họ còn chưa biết, nói chi Chúa của mình!
c) Những nỗ lực
truyền giáo
Tuy chưa có một tài liệu nghiên cứu
quy mô về công cuộc truyền giáo hiện nay tại Việt Nam, những tin tức và mẩu
truyện vụn vặt cho thấy là cũng có nhiều cố gắng truyền giáo tại nhiều giáo phận,
nhất là những giáo phận miền Cao nguyên nơi có nhiều anh chị em dân tộc, hoặc
những nơi xa xôi như Miền Tây. Chúng ta có thể nhắc lại những ghi nhận truyền
giáo của cha Piô Ngô Phúc Hậu trong cuốn “Nhật ký truyền giáo” của ngài.
d) Tinh thần và công
tác truyền giáo tại các giáo xứ
Nhìn sơ đồ công tác thực hiện Sứ
Mệnh loan báo và làm chứng Tin Mừng của thông điệp “Sứ mệnh Đấng Cứu Thế” (Số
33-34)
Vì tình trạng di chuyển của dân
chúng trong thời đại mới này, trong các giáo xứ, nhất là những giáo xứ thành thị,
có tất cả 5 nhóm người này và do đó, cần thiết phải thực hiện tất cả 5 loại
công tác tông đồ. Tuy nhiên, thường thì các công tác tông đồ tại các giáo xứ và
của nhiều dòng tu chỉ gói ghém trong công tác mục vụ. Công tác tân phúc âm hóa
và truyền giáo ít khi được nói đến. Ý thức và dấn thân cho công tác tân phúc âm
hóa và cho việc truyền giáo tại Việt Nam chắc chắn là có, nhưng xem ra mới chỉ
là tinh thần và dấn thân của một số cá nhân hay nhóm các tín hữu chứ chưa phải
là tinh thần chung của Giáo Hội Việt Nam.
Như vậy, về tinh thần và nỗ lực
truyền giáo tại Việt Nam, chúng ta không thể nói cách đơn giản là “có” hay “không”,
mà “có” và “không”, tuy chữ “không” có phần to hơn chữ “có”. Nhưng nếu nói về
tinh thần và dấn thân truyền giáo của các giáo xứ và các cộng đoàn dòng tu xem
ra chữ “không” lại to hơn nữa.
Nhìn vào Giáo hội tại Việt Nam,
chúng ta thấy có một hình ảnh hết sức mâu thuẫn: một đàng đây là một Giáo hội hết
sức linh động, đầy sức sống; đàng khác Giáo hội đóng khung trong môi trường của
mình. Tôi có cảm tưởng như nhìn thấy một đập nước. Dưới thung lũng thì đầy nước,
nhưng lượng nước lớn lao đó lại bị kìm hãm trong thung lũng, không thể nào tràn
lan ra ngoài để tưới mát những vùng đất chung quanh đang khô cằn. Cái gì đang
ngăn cản không cho nguồn nước chảy tràn ra ngoài? Đây là câu hỏi cần phải
được trả lời. Chúng ta không có thời giờ để phân tích thấu đáo vấn đề, nhưng ít
nữa, cần nêu ra vấn đề để mời gọi và thúc đẩy suy tư tìm kiếm của nhiều người.
IV. MỘT SỐ MÔI TRƯỜNG
TRUYỀN GIÁO ĐẶC BIỆT TRONG TƯƠNG LAI
Trong hoàn cảnh xã hội Việt Nam
hiện nay, có rất nhiều môi trường truyền giáo, nhưng có lẽ cần để ý đặc biệt đến
bốn môi trường sau đây. Chúng vừa là thách đồ, vừa là cơ hội cho việc truyền
giáo:
a) Dân chúng tại các
thành thị
Khi nói đến công tác truyền giáo,
người ta thường nói đến “vùng sâu, vùng xa” và nói đến dân nghèo, trẻ em bị bỏ
rơi. Dĩ nhhiên đây là một thành phần rất đáng được để ý, nhưng đối tượng cần được
chú ý hơn trong công tác truyền giáo có lẽ là những người sống tại các thành thị,
nhất là giới trí thức và giầu có. Một đàng vì họ là những người có khả năng chi
phối cuộc sống của xã hội, đàng khác, chính những người nghèo và dân sống vùng
thôn quê cũng ngước nhìn lên họ với lòng ao ước và thèm khát, muốn bắt chước họ.
Chính thông điệp “Sứ mệnh Đấng Cứu Thế” cũng xác định điều này:
“Trong quá khứ, công tác truyền
giáo thường được thực hiện nơi những vùng xa xôi hẻo lánh, cách xa những trung
tâm sinh hoạt và khó khăn về giao thông, về tiếng nói và về khí hậu. Hôm nay
hình ảnh truyền giáo có lẽ đang thay đổi: nơi đáng chú ý có lẽ phải là những
thành phố lớn, nơi phát sinh những phong tục và mẫu sống mới, những hình thức
văn hóa và truyền thông mới có ảnh hưởng lớn đến dân chúng. Dĩ nhiên “sự lựa chọn
những kẻ rốt cùng” không cho phép chúng ta làm ngơ đối với những nhóm người sống
bên lề xã hội, nhưng cũng phải nhớ là không thể rao giảng Tin Mừng cho những cá
nhân hay nhóm người thấp hèn, nếu bỏ qua những trung tâm nơi phát sinh, có thể
nói, một nhân loại mới với những mẫu phát triển mới. Tương lai của các quốc gia
trẻ đang thành hình tại các thành phố.” (SMĐCT, số 37).
b) Dân chúng sống
trong các tòa nhà cao ốc
Ở nhiều nơi nhưng đặc biệt ở những
thành phố lớn như Hà Nội, Saigòn và cả Bà Rịa, Vũng Tầu, người ta thấy đang mọc
lên đầy dẫy những tòa nhà cao ốc và những khu dân cư dành riêng cho người giầu,
những chuyên viên, những thương gia. Đa số những người này là anh chị em lương
dân. Đây sẽ là những thế giới riêng biệt và những người sống trong những môi
trường này sẽ tách mình khỏi những sinh hoạt và liên hệ bình thường để trở
thành những ốc đảo riêng tư. Làm sao để tới được những người trong môi trường
này và làm thế nào để có thể đem Tin Mừng của Chúa đến cho họ? Đây là một vấn đề
rất lớn của công việc truyền giáo trong tương lai và đòi hỏi một suy tư để tìm
câu trả lời thích hợp ngay từ bây giờ.
c) Hiện tượng di dân
Một môi trường mới khác đang trở
thành một thách đố lớn lao cho công tác truyền giáo là môi trường của hiện tượng
di dân. Thực ra hiện tượng di dân đã được nhiều người nói đến từ lâu, nhưng thường
được nhìn dưới góc cạnh kinh tế, xã hội, luân lý. Ở đây, chúng ta nhìn vấn đế
dưới góc cạnh truyền giáo.
Hiện tượng di dân đặt ra nhiều vấn
đề cho Giáo Hội và xã hội, nhưng đối với sứ mệnh truyền giáo, đây lại là một cơ
hội lớn. Qua hiện tượng di dân, Giáo Hội không cần đi tìm đồng bào lương dân,
nhưng chính đồng bào lương dân đến với Giáo Hội và họ ở trong tư thế sẵn sàng
đón nhận những nghĩa cử của tình yêu, của lòng thương mến. Đây là dịp may để
Giáo Hội loan báo Tin Mừng tình yêu của Chúa đối với nhân loại khổ đau và thiếu
thốn. Một khi người ta đã ổn định, có gõ cửa người ta cũng không mở! Nhưng xem
ra, Giáo Hội đang để lỡ những cơ hội bằng vàng.
d) Giới trí thức và
văn nghệ sĩ
Người ta thường nói “tư tưởng điều
khiển hành động”. Ngoài ra, các ngành nghệ thuật, nhất là ngành ca, vũ, nhạc kịch
lôi cuốn và ảnh hưởng sâu đậm vào lòng người. Do đó, giới trí thức và văn nghệ
sĩ là những người tạo dư luận và lôi cuốn xã hội. Một ông tướng đánh trận, nếu
sai lầm sẽ tiêu hủy một đạo quân; một nhà chính trị nếu sai làm sẽ làm tan
hoang một quốc gia; một người làm văn hóa, nghệ thuật nếu sai lầm sẽ làm bại hoại
thế giới, nhiều thế hệ. Nhưng nhiều khi những giới này lại là giới sống xa cách
Giáo Hội và là giới đang bị ảnh hưởng sâu đậm của trào lưu tục hóa, hay hơn nữa,
chính họ là những người tạo ra trào lưu tục hóa. Công tác truyền giáo và tân
phúc âm hóa không thể làm ngơ hay coi thường giới trí thức và văn nghệ sĩ.
V. NHỮNG
TÁC ĐỘNG CANH TÂN DẤN THÂN TRUYỀN GIÁO
Như chúng ta đã nói ở trên, tình
trạng Giáo Hội Việt Nam có thể ví như một đập nước, nhưng nước bị ứ đọng, không
chảy đi để tưới mát những vùng đất chung quanh, có khi rất khô cằn. Chúng ta cũng
có thể ví hoàn cảnh này như một bình gas. Chất gas đã có đầy bình, nhưng vẫn
chưa bốc cháy để hâm nóng nước và thổi cơm vì còn thiếu một tia lửa. Đối với việc
dấn thân truyền giáo, sức bật là gặp được nguồn hạnh phúc trong việc sống đạo
và xóa bỏ các nghi vấn như những vật cản. Đó là hai khía cạnh của các suy tư dưới
đây, mong đóng góp cho một tác động cụ thể để khơi lên hào khí truyền giáo nơi
mọi anh chị em giáo dân.
1. Khơi lên niềm vui
hanh phúc sống đạo
Nhiệt huyết truyền giáo phát xuất
từ niềm vui Đức Tin, từ tâm hồn hạnh phúc trong đời sống Đức Tin của mình. Có hạnh
phúc thực khi gặp được một người mình thương mến và người đó thương mến mình.
Những lý do khác, chẳng hạn, giầu có, ăn uống, chơi vui giải trí, có thể làm
cho niềm vui sống Đạo được dễ dàng hơn, nhưng cũng có nguy hiểm là sẽ làm cho tắt
mất niềm vui mới nhen nhúm. Người ta thường nói: “Hai trái tim vàng trong túp lều
tranh”. Khi thương yêu nhau, dù chỉ có túp lều tranh cũng vui, cũng hạnh phúc;
khi không có tình thương thì có ngồi trên nhung lụa và ăn bát bằng vàng cũng buồn,
cũng chán và có khi còn đau khổ nữa. Do đó, có hạnh phúc thực trong đời sống
Đức tin và ơn gọi linh mục, nếu gặp được Chúa và hiểu được là Chúa thương yêu mình
hết tình. Do đó, cố gắng giữ gìn tình nghĩa với Ngài và sẵn sàng sống chết cho
Ngài, chứ không phải chỉ tin vào mấy tín điều, giữ mấy điều luật hay làm điều
này điều kia có ích lợi cho cộng đoàn và cho tha nhân. Dĩ nhiên, những điều đó
cũng rất quan trọng, nhưng nếu không có việc gặp gỡ chính Chúa, thì mới chỉ có
vỏ mà chưa có ruột.
Vì vậy, để sống Đạo hạnh phúc, cần
phải vươn lên trên các yếu tố phụ để tìm ra sợi giây thân tình riêng nối kết
mình với Chúa Giêsu. Còn gì hạnh phúc hơn được làm con Chúa Cả Trời Đất! Còn gì
hạnh phúc hơn khi biết mình được Chúa Cả Trời Đất thương yêu và yêu đến độ đã
sai Con Một của mình xuống thế làm người để chia sẻ thân phận làm người để cứu
vớt và để thông truyền đời sống thần linh cho những ai tin vào Ngài và đón nhận
Ngài (x. Ga 1,12; Ga 3,16-18). Còn gì hạnh phúc hơn khi vì Chúa, mình có thể
thương yêu, giúp đỡ và tha thứ cho những người chẳng phải máu mủ, ruột thịt gì
với mình! Không hạnh phúc sao được, khi lòng mình như mở rộng ra cõi trời mênh
mông bát ngát của con tim thần linh Thiên Chúa!
2. Thắp lên ngọn
lửa yêu thương
Nhiệt huyết truyền giáo phát sinh
từ suối nguồn tình yêu của Thiên Ch1ua đối với nhân loại. “Thiên Chúa yêu thế
gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết,
nhưng được sống muôn đời. Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian,
không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được
cứu độ” (Ga 3,16-17). Do đó, để truyền đạt Tin Mừng và tình yêu của Chúa
cho anh chị em lương dân và làm cho họ hiểu được Chúa là Đấng Cứu Độ, các tín hữu
của Chúa phải được đổ đầy tình yêu của Chúa đến độ trở thành hiện thân của tình
yêu của Ngài cho anh chị em lương dân. Chỉ có tình yêu mới chinh phục và xây đắp.
Đọc cuốn sách “Dân Làng Hồ”, tức
là Dân Kontum, diễn tả cuộc đời và hoạt động của các cha thừa si đầu tiên lên
đó để đem Tin Mừng cho anh chị em Dân Tộc, chúng ta có thể hiểu được phần nào
tình yêu truyền giáo. Khi thấy mình không được anh chị em Dân Tộc hiểu và đón
nhận mà trái lại còn chạy trốn, các ngài thốt lên như sau: “Ôi ! Biết bao lần
trong các dịp chúng tôi đi quan sát trong vùng, khi thấy anh chị em Thượng chạy
trốn thì con tim chúng tôi như lại rướm máu, lẽ nào đã không quặn đau? Chúa
Giêsu nhân hậu đã nói với người đàn bà xứ Samaria : "Nếu ngươi biết
được ân huệ của Thiên Chúa, nếu ngươi biết được ai đang nói với ngươi "Hãy
cho Ta uống nước" thì có lẽ chính ngươi phải xin và Người đó sẽ cho ngươi
nước hằng sống." Những lời nói dịu dàng này thường đến trong tâm
trí tôi. Đôi khi, vì không thể làm cho anh em Thượng hiểu được mình, cũng không
làm sao cho tiếng nói của mình đến tai họ được, tôi phải la lên từ xa với những
kẻ đang chạy trốn, cho dù họ chẳng nghe : "Hỡi người anh em dân tộc
đáng thương và yêu quí ! Giá mà anh em biết được tôi thương yêu anh em và muốn
làm điều tốt lành cho anh em ! Giá mà anh em biết được vì lòng thương yêu anh
em, tôi đã không quản ngại nhọc nhằn vất vả, đã vượt biển cả, coi thường bão tố
! Giá mà anh em biết được tổ quốc tôi phồn vinh như thế nào mà tôi đành lìa bỏ
chỉ vì anh em ! Ôi, giá mà anh em biết được mẹ của tôi, một người mẹ tốt lành,
thánh thiện ở cách xa đây sáu nghìn dặm mà tôi đã phải nói lời vĩnh biệt xa lìa
bà với con tim quặn đau! Và tất cả mọi việc đó chỉ vì yêu quí anh em, thương
anh em, mà anh em lại chạy trốn tôi, lại sợ hãi tôi, một người bạn tốt nhất của
anh em!"[4] (P.
Dourisboure, Dân Làng Hồ, TGM Kontum, nxb Đà Nẵng, 2008, trg. 67)
3. Làm sáng tỏ
các nghi vấn
Nhiệt huyết truyền giáo lắm khi bị
cùn lụt vì những mặc cảm gây ra bởi những hiểu lầm, những nghi vấn. Vì giới hạn
thời gian, chúng ta chỉ phân tích hai nghi vấn thường được nghe trong khi tiếp
xúc với anh chị em lương dân.
a) Có người nói
rằng Đạo Công Giáo là đạo nước ngoài, không phải đạo của người Việt Nam
Nếu nói theo địa dư thì Đạo Công
Giáo phát xuất ở ngoài nước Việt Nam nên có thể nói là đạo nước ngoài. Nhưng
đâu phải chỉ có Đạo Công Giáo mới là đạo nước ngoài. Phật giáo phát xuất
từ Ấn Độ và vào Việt Nam qua hai ngả: Tàu và Cao Miên. Như vậy, đạo Phật cũng
là đạo nước ngoài; Khổng giáo và Lão giáo đến từ nước Tàu, cũng là đạo nước
ngoài; Hồi giáo đến từ Ả rập Trung Đông cũng là đạo nước ngoài.
Nếu nhìn sâu hơn thì thấy là
trong một tôn giáo có hai phần: phần tinh anh là yếu tố thiêng liêng; phần cụ
thể là những cách diễn tả yếu tố thiêng liêng. Phần tinh anh thiêng liêng thì
không có trong có ngoài. Đâu có một con tim đón nhận thì đó là nhà. Còn những
diễn tả cụ thể thì mang tính chất văn hóa của người đã sống và truyền cho mình.
Do đó, đạo Công Giáo có những cách diễn tả theo văn hóa Do Thái và La-Hy; đạo
Phật có những cách diễn tả theo văn hóa Ấn Độ và đạo Phật vào Việt Nam qua ngả
Trung quốc nên cũng có thêm những yếu tố văn hóa Tàu; đạo Khổng và đạo Lão thì
có cách diễn tả theo truyền thống Trung quốc…
Nhưng đâu có phải hễ cái gì của
nước ngoài là xấu đâu. Ngày nay người ta còn chuộng đồ ngoại nữa là khác. Trong
đời thường, đàn ông Việt Nam đi giầy tây, đeo cravatte, đàn bà mặc váy đầm. Những
thứ đó đâu có phải của Việt Nam, vậy mà người ta vẫn thích mặc. Dầu sao, mỗi
người cần phải diễn tả cái phần thiêng liêng tinh thần của Đạo theo văn hóa của
mình. Vì vậy, Đạo Công Giáo trên khắp thế giới, trong mấy chục năm vừa qua, đã
cố gắng diễn tả Đức Tin theo văn hóa mỗi nơi. Tại Việt Nam, Giáo Hội Công Giáo
đã có rất nhiều cố gắng từ nhiều thế kỷ để diễn tả Đức tin của mình theo cách
thức Việt Nam, chẳng hạn, Dâng Hoa, Vãn Hoa, Thánh Lễ bằng tiếng Việt Nam, các
bài hát đạo, các kinh bằng tiếng Việt… Khi tôi đi thăm viếng Thái Lan, một Đức
Cha Thái kể với tôi là ngày lễ sinh nhật của Vua Thái, các tôn giáo họp nhau để
cầu nguyện cho Vua Thái. Chỉ có người công giáo Thái là cầu nguyện bằng tiếng
Thái, còn các tôn giáo khác cầu nguyện bằng tiếng nguyên gốc của tôn giáo đó,
không phải là tiếng Thái. Người công giáo bị chê trách là theo Đạo nước ngoài,
nhưng lại là những người duy nhất dùng tiếng của mình để cầu nguyện! Hoàn cảnh
này, biết đâu cũng chẳng phải là hoàn cảnh Việt Nam?
b) Theo Đạo Công
Giáo có phải từ bỏ ông bà, cha mẹ và bất hiếu không?
Người ta hay nói là theo đạo phải
bỏ Ông Bà. Câu nói này nghe cứ như một truyện huyền thoại, nhưng người ta cứ lặp
đi lặp lại mà không kiểm chứng hư thực. Theo Đạo Công Giáo, không những không
được bỏ ông bà, cha mẹ, mà đạo hiếu còn là một bổn phận nền tảng được diễn tả bằng
nhiều cách.
- Đạo
Chúa dạy phải thảo kính cha mẹ
- Trong
Kinh Thánh, có rất nhiều đoạn sách dạy các tín hữu phải thảo kính cha mẹ. Ở
đây, chúng ta chỉ trích một đoạn của sách Huấn Ca, được đọc trong phụng vụ ngày
lễ kính Thánh Gia Thất: “Ai thờ cha thì bù đắp lỗi lầm, ai kính mẹ thì tích trữ
kho báu. Ai thờ cha sẽ được vui mừng vì con cái, khi cầu nguyện, họ sẽ được
lắng nghe. Ai tôn vinh cha sẽ được trường thọ, ai vâng lệnh Đức Chúa sẽ
làm cho mẹ an lòng. Con ơi, hãy săn sóc cha con, khi người đến tuổi già; bao
lâu người còn sống, chớ làm người buồn tủi. Người có lú lẫn, con cũng phải cảm
thông, chớ cậy mình sung sức mà khinh dể người. Vì lòng hiếu nghĩa đối với cha
sẽ không bị quên lãng, và sẽ đền bù tội lỗi cho con. Thiên Chúa sẽ nhớ đến con,
ngày con gặp khốn khó, và các tội con sẽ biến tan như sương muối biến tan lúc đẹp
trời. Ai bỏ rơi cha mình thì khác nào kẻ lộng ngôn, ai chọc giận mẹ mình, sẽ bị
Đức Chúa nguyền rủa.” (Hc 3,2-6.12-16).
- Giới
Răn thứ bốn
Đạo Chúa có 10 Giới Răn, trong đó
3 Giới Răn đầu nói về bổn phận đối với Thiên Chúa và 7 Giới Răn sau nói về bổn
phận đối với loài người và Giới Răn đầu tiên của 7 Giới Răn này là Giới Răn thứ
IV dạy phải “Thảo kính cha mẹ”.
- Cầu
nguyện cho ông bà tổ tiên mỗi ngày
Ngày nào trong Thánh Lễ, linh mục
cũng cầu nguyện cho Tổ tiên, ông bà, cha mẹ đã qua đời. Trong Thánh Lễ, không
những mỗi tín hữu cầu nguyện cho tổ tiên, ông bà, cha mẹ của mình mà cả những
anh em công giáo khác cũng cầu nguyện cho tổ tiên ông bà của mình và mình cũng
cầu nguyện cho tổ tiên, ông bà, cha mẹ của họ. Như vậy, chữ hiếu của người công
giáo được nhân lên gấp nhiều triệu lần.
- Tháng
các Linh Hồn
Mỗi năm Giáo Hội dành trọn tháng
11, gọi là Tháng các Linh Hồn hay Tháng các Đẳng, để cầu nguyện cho tổ tiên,
ông bà, cha mẹ và mọi người thân thuộc đã qua đời. Chiều ngày 1 hay 2 tháng 11,
nghĩa trang người công giáo rộn ràng như ngày Tết, nhưng cũng linh thiêng và đầm
ấm vì tất cả gia đình dắt nhau ra viếng mộ ông bà cha mẹ và đọc kinh cầu nguyện
cho các ngài.
- Những
dịp kỷ niệm
Trong năm, vào dịp kỷ niệm của tổ
tiên, ông bà, cha mẹ, người công giáo thường xin lễ cầu nguyện cho các ngài.
- Ngày
Mồng Hai Tết
Riêng tại Việt Nam, Hội Đồng Giám
Mục đã quyết định dành ngày Mồng Hai Tết để cầu nguyện cho tổ tiên, ông bà, cha
mẹ còn sống cũng như đã qua đời. Thường tại các giáo xứ, giáo dân tham dự Thánh
Lễ ban sáng tại nhà thờ để cầu nguyện cho ông bà, cha mẹ còn sống. Thánh lễ ban
chiều, thường được cử hành tại nghĩa trang để cầu nguyện cho tổ tiên và ông bà,
cha mẹ đã qua đời. Cũng như ngày mồng 2 tháng 11, vào dịp này, giáo dân tham dự
Thánh Lễ rất đông, có khi còn đông hơn ngày mồng 2 tháng 11 vì là ngày nghỉ. Người
ta có thể chứng kiến một khung cảnh rất cảm động, linh thiêng và đầm ấm gia
đình. Trước Thánh Lễ, con cái, cháu chắt tụ họp chung quanh ngôi mộ của cha mẹ,
ông bà cắm hoa, thắp hương và cầu nguyện trước Thánh Lễ.
- Đạo
Chúa cấm những hành vi, lễ nghi mê tín dị đoan
Giáo Hội cấm những lễ nghi, phong
tục tôn kính tổ tiên có tính cách mê tín, dị đoan, chẳng hạn vấn đề dâng cúng đồ
ăn cho tổ tiên. Trước đây Giáo Hội cấm hành động này vì trong tâm thức lúc đó,
người dân tin là ông bà về ăn và người ta tôn thờ ông bà như một vị thần có quyền
ban phát ơn huệ cho con cái, chứ không phải là những vị thánh tốt lành, có thể
bầu cử cho con cháu trước Tòa Chúa. Bây giờ tâm thức của dân chúng đã thay đổi.
Người ta coi đó là những cách tỏ lòng tôn kính, tưởng nhớ đến ông bà, tổ tiên.
Do đó, những nghi thức, phong tục này lại được Giáo Hội cho phép.
Như vậy, Giáo Hội không những
không cấm mà còn khích lệ và bó buộc tỏ lòng tôn kính ông bà tổ tiên. Hơn
nữa, trong khi đạo hiếu trong văn hóa Việt Nam đặt nền tảng trên chính tổ tiên,
đạo hiếu của người công giáo vươn lên hẳn một bậc: đây là lệnh truyền của Thiên
Chúa, Đấng đã tạo dựng nên mọi người, kể cả các tổ tiên, ông bà, cha mẹ mình.
Giáo Hội chỉ cấm các thái độ,
phong tục và hình thức diễn tả mê tín, dị đoan đi ngược lại Đức Tin Công Giáo. Ở
khía cạnh này, cũng có thể xảy ra những hiểu lầm về ý nghĩa của những phong tục,
lễ nghi. Không những trong quá khứ mà ngay cả trong thời đại này, các ý kiến về
ý nghĩa một số phong tục hay nghi lễ cổ truyền theo văn hóa cũng không luôn hòa
đồng với nhau.
Thay kết luận
Để kết thúc bài chia sẻ này, tôi
chỉ cầu mong và nguyện xin để buổi học hỏi và gặp gỡ hôm nay khơi lên được lòng
thao thức truyền giáo thúc đẩy mọi tín hữu của Chúa được cộng tác tích cực vào
các sáng kiến làm chứng cho Chúa và đem Tin Mừng của Ngài đến các anh chị em
lương dân, nhất là những anh chị em lương dân chúng ta có dịp gặp gỡ và quen biết
trong các giao tiếp và trong công ăn việc làm.
Chú thích
[1] International Bulletin of Missionary Research (David B. Barrett & Todd M. Johnson), January 2012 vol. 36, n. 1, p. 29.
[2] Trong khi các tôn giáo khác, người ta dễ có một số ý niệm, ít là khái quát, đạo Sikh, ít người biết đến. Đạo Sikhs được sáng lập bởi Nanak (1469-1538) bên Ấn Độ trong bối cảnh của Ấn giáo và Hồi giáo. Giáo lý lấy chính yếu từ khuynh hướng Bakhti của Ấn giáo và thêm một ít của khuynh hướng huyền bí Sufi của Hồi Giáo. Tên Sikhs lấy từ chữ Sanskrit có nghĩa là môn đệ, tức là những môn đệ của Nanak.
[3] Annuarium Statisticum Ecclesiae 31/12/2011.
[4] P. Dourisboure, Dân Làng Hồ, TGM Kontum, nxb Đà Nẵng, 2008, trg. 67.
[1] International Bulletin of Missionary Research (David B. Barrett & Todd M. Johnson), January 2012 vol. 36, n. 1, p. 29.
[2] Trong khi các tôn giáo khác, người ta dễ có một số ý niệm, ít là khái quát, đạo Sikh, ít người biết đến. Đạo Sikhs được sáng lập bởi Nanak (1469-1538) bên Ấn Độ trong bối cảnh của Ấn giáo và Hồi giáo. Giáo lý lấy chính yếu từ khuynh hướng Bakhti của Ấn giáo và thêm một ít của khuynh hướng huyền bí Sufi của Hồi Giáo. Tên Sikhs lấy từ chữ Sanskrit có nghĩa là môn đệ, tức là những môn đệ của Nanak.
[3] Annuarium Statisticum Ecclesiae 31/12/2011.
[4] P. Dourisboure, Dân Làng Hồ, TGM Kontum, nxb Đà Nẵng, 2008, trg. 67.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét